
Tháng bảy trời nóng sôi trên các nẻo đường ở Huế. Hoa phượng say
nắng ngất lịm trên cành. Tiếng ve âm vang mê mải trong các vườn cây thúc giục
mọi người hãy kéo nhau vể bãi Thuận An hay lên Ngự Bình tìm nơi mát mẻ – nhà
Huế nhà nào cũng có vườn hay sân trong bóng rợp, mấy chú ve thường kéo đến
trong các tùm cây nhãn, cây vải, cây chôm chôm suốt ngày ca hát đàn đúm hầu như
không biết mệt, ra rả sáng trưa chiều trong khoảng không gian khật khừ của
thành phố mọi năm tháng bảy vắng hoe bóng học trò.
Nhưng năm ấy thành phố rộn
rực khác thường với những đoàn xe đạp hàng loạt lên chùa, bến xe đò ở chợ Ðông
Ba tấp nập sinh viên lên xuống Ðông Ba Từ Ðàm, Ðông Ba Diệu Ðế. Tiểu thương chợ
Ðông Ba, nỗi tiếng là hậu cần trung thành và đắc lực trong phong trào đòi bình
đẳng Phật giáo tại Huế – vì họ toàn là đệ tử của các ôn trên núi, nên luôn luôn
sẵn lòng bỏ hết của cải ủng hộ chùa mà họ cho đó là làm việc thiện để tích đức
cho công việc doanh thương. – cũng hăng hái không kém sinh viên, trên bến xe họ
gửi gắm hoa quả, thực phẩm, hương đèn lên cúng chùa, một người làm là mười
người làm theo, rồi hai ba bốn chục người… đến nỗi xe đò lắm khi đầy nhóc lương
thực cúng chùa, bác lơ xe và anh tài không la rầy mà lại cuời toe bấm còi inh
ỏi. Mỗi lần xuống chợ Kha, Ðông, Tùng, Bính, Côn, Hiệp bao giờ cũng thấy vui
hơn Tết, vì không cần mở miệng là đã được ký gửi tới tấp các phẩm vật của các
chị các o lăng xăng bỏ hết thứ này thứ nọ nào bún nào đường, nào gạo nào mì
trong lúc các mệ cười ngỏn nghoẻn sau quầy hàng ủng hộ, và dĩ nhiên là bánh
trái đủ thứ được giúi vào túi đãy với những nụ cười rất xinh. Sau này anh em
hay tình nguyện xuống chợ là vì thế và lắm khi phải rút thăm để xem ai được đi
trước. Và bến xe Ðông ba bỗng nhiên náo nhiệt hơn hẳn một thời.
Tháng bảy năm ấy chúng tôi không ai bảo ai mà chẳng có đứa nào
nghĩ đến chuyện đi nghỉ hè, chỉ có một vài người bố mẹ bắt lánh mặt nên được vé
máy bay đi vào Sài Gòn, Nha Trang, Ðà Lạt. Bửu Tôn, Ðoàn Duy vào Sài Gòn sau
khi chùa Từ Ðàm được giải phong tỏa (11. 06. 63), nhưng "chạy trời không
khỏi nắng", vào Sài Gòn chỗ tới lui vẫn là các chùa Xá Lợi, Ấn Quang, lại
gia nhập vào Ðoàn Sinh viên Phật tử Sài Gòn đi biểu tình, tuyệt thực. Riêng
đoàn sinh viên Phật tử Huế lại càng bận rộn sau khi bản thông cáo chung được ký
kết giữa Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật giáo và Ủy ban Liên Bộ của chính phủ
(ngày 14. 06. 63). Cuộc thương lượng được kết thúc nhanh chóng không ngờ, không
nói ai cũng biết "ngọn lửa Thích Quảng Ðức" đã tác động mạnh mẽ dường
nào lên phía chính quyền từ đầu "nay lần mai lữa" chỉ hứa hẹn suông.
Sau hai tuần bản thông cáo chung được công bố, Phật tử kiên nhẫn chờ đợi chính
quyền thực thi những lời cam kết, nhưng mọi người dần dần thất vọng và nghi ngờ
thiện chí của chính quyền. Khắp nơi nổi lên những hiện tượng giả phản hồi cuộc
vận động Phật giáo được các cấp chính quyền khuyến khích mạo danh tổ chức, nhóm
Cổ Sơn Môn được ông Nhu khuyến khích lên tiếng bôi nhọ Ủy Ban Liên Phái Phật
giáo để gây chia rẽ, phụ nữ liên đới thanh niên thanh nữ cộng hòa đến các chùa
tìm cách nhục mạ quí Thầy. Bà Nhu tuyên bố ngài Quảng Ðức tự thiêu là
"thầy tu tự nướng" và tuyên bố tiếp sẽ "cho xăng mà nướng
thêm" và sẽ "vỗ tay mà cười"… đến nỗi thân phụ bà ông đại sứ
Trần Văn Chương… phải lên tiếng từ con.
Chúng tôi được giao phó cho công việc đối nội và đối ngoại từ sau
buổi cầu siêu Hòa Thượng Thích Quảng Ðức tại chùa Từ Ðàm ngày 2.7.1963, cũng là
ngày của cuộc vận động Phật giáo bước sang đợt 2: Ðòi thực thi bản thông cáo
chung. Chúng tôi có bổn phận giải thích bản thông cáo cho các tầng lớp Phật tử
và phải tiếp các phóng viên báo ngoại quốc đến Huế. báo chí khắp nơi, BBC, đài
VOA, đài Úc, báo chí Pháp Le Monde v.v… càng lúc càng chú ý đến phong trào Phật
giáo tại miền Nam và họ đã chứng kiến những "cuộc biểu tình huyền
diệu" của học sinh, sinh viên Phật tử. Không khí Huế sục sôi với những
cuộc biểu tình, tuyệt thực bất bạo động bất cứ nơi nào, trước chợ, nơi bến xe,
trước tỉnh đường, trên dốc Nam Giao, trước văn phòng Viện Trưởng viện Ðại học
do Linh mục Cao Văn Luận làm viện trưởng. Phong trào sinh viên học sinh càng
ngày càng sôi nổi với những buổi hội thảo phân tích bản thông cáo và phê bình
thái độ khinh thị bản thông cáo của chính quyền.
Chính trong bầu không khí ấy, tin Nhất Linh tự vẫn đã đến với tôi
khi vừa dựng xe sau nhà bếp chùa Từ Ðàm để vào phòng họp Ðoàn. Hôm ấy là ngày
7.7.1963. Người báo tin cho tôi là anh Vĩnh Kha đang ngồi trên xe Vespa chạy
trờ tới. Anh Vĩnh Kha nói giọng thất thanh: "Này, Kim Lan, Nhất Linh tự
vẫn sáng nay rồi!" Nghe giọng anh như lạc đi một chút trong cơn nghẹn. Tôi
hỏi lại bằng câu cố hữu kiểu Huế của tôi: "Thiệt không?". Anh Kha lần
này không bắt bẻ câu hỏi ngớ ngẩn như mọi lần mà chỉ lắc đầu, hình như anh rất
xúc động – anh Kha không thuộc vào một đảng phái nào từ trước đến giờ nhưng tin
Nhất Linh tự vẫn làm anh xúc động đến lặng người khác hẳn ngày thường khi gặp
tôi anh hay nói huyên thuyên - tôi lếch thếch đi theo anh vào phòng họp. Từ bếp
chùa lên đến phòng họp Ðoàn SVPT bên phía sân trái của chùa không dài, tiếng
guốc của tôi khua lóc cóc trên nền xi măng đơn độc, tôi chưa thể định hình một
cảm giác nào rõ rệt, mơ hồ nghe trong âm vang tiếng guốc giọng học bài năm nào
thoáng lên lởn vởn:
"Thằng Bò, cái Nhớn cái Bé… không, anh phải sống" [truyện
ngắn "Anh phải sống" của Nhất Linh - Khái Hưng]
Hồi còn trung học chúng tôi đã học Nhất Linh trong giờ "văn
chương". Trích đoạn truyện ngắn này đã nằm sâu trong ký ức khó mà gột rửa,
nhưng cũng khó mà gợi nhớ, nếu chúng không tự bật ra. Trong giờ phút nghe tin
nhà văn Nhất Linh mất, bỗng nhiên "Anh phải sống" lại hiện về. Một
dẫn chứng phi lý trong giờ phút nghe Nhất Linh mất, nhưng hãy để nó phi lý như
thế trong đầu óc bé nhỏ của tôi.
Anh em đã đến đông đủ trong phòng họp. Anh G. đoàn trưởng của
chúng tôi đã đến từ sáng sớm, anh cầm viết trong tay hí hoáy thảo mấy giòng
trên giấy, ngẩng đầu lên anh bảo: "Nhất Linh tự vẫn!" Anh em im lặng
một giây như để mặc niệm hay để ý thức rõ cái chết của một nhà văn Việt Nam
lừng lẫy quen thuộc nhất thời ấy. Sau đó chúng tôi thảo luận và đồng ý với
nhau: "Chúng ta nên gợi ý tổ chức lễ truy điệu nhà văn Nhất Linh tại chùa
Từ Ðàm, đề nghị mời khoáng đại, nhất là trong giáo giới, sinh viên, học sinh,
trí thức, giới đại học. Ai muốn đến tụng kinh thì đến. Chúng ta thường trực
suốt ngày ở chánh điện Từ Ðàm. Phật tử chỉ truy điệu văn hào Nhất Linh mà
thôi!"
Ðến lúc đó chúng tôi chưa được đọc di chúc của Nhất Linh, mãi đến
chiều, chúng tôi mới được đọc nguyên văn:
"Ðời tôi để lịch sử xử, tôi không chịu để ai xử cả. Sự bắt
bớ và xử tội tất cả các phần tử đối lập là một tội nặng, sẽ làm mất nước... Tôi
chống đối sự đó và tự hủy mình như Hòa thượng Thích Quảng Ðức tự thiêu để cảnh
cáo những người chà đạp mọi thứ tự do. Ngày
7-7-63, Nguyễn Tường Tam"
Tin Nhất Linh tự vẫn đã làm chấn động không ít toàn thể giới trí
thức và văn nghệ sĩ miền Nam. Tôi không muốn nhắc đến vai trò chính trị của
ông. Có phải tôi là người duy nhất không nghĩ đến vai trò của Nguyễn Tường Tam
trong Quốc Dân Ðảng? Phải nói dạo ấy tôi mù mờ về các chính đảng là như thế, bù
vào sự mù mờ này là trực giác về việc phải làm trong giây phút hiện tại. Tôi đã
sững sờ nghe tin Thích Quảng Ðức tự thiêu, hôm nay lại bàng hoàng nghe Nhất
Linh tự vẫn trong lòng cuộc vận động Phật giáo cho công bằng. Hình như những
tin đó làm cho tôi không còn nghĩ đến sợ hãi và suy tính nào khác hơn là… tham
dự, là trong cuộc với mọi người. Cho nên đi đưa đám Nhất Linh tôi đã đi đưa với
tâm trạng của một kẻ đọc và học văn Nhất Linh và nhóm Tự Lực Văn Ðoàn từ những
thập niên 51/63, khi tôi bắt đầu mê say đọc tiểu thuyết. Cuộc vận động Phật giáo
và phong trào 63 là thế, mọi việc hình như đến từ trái tim…
Ðám tang đưa tiễn Nhất Linh ở Huế thật lớn. Các giới trí thức đều
đi đưa tiễn, họ không ngại ngần bị chụp mũ theo Quốc Dân Ðảng chống chính quyền
nữa. Cái chết của Thích Quảng Ðức và của Nhất Linh đã phá vỡ tất cả những e
ngại thường có trong giới trí thức đắn đo. Ở trong phong trào cuộc vận động,
tôi cảm nhận được sự rúng động của ngày 7.7.63 này đã lan đến tầng lớp trí thức
như thế nào. Sự bất bình của mọi tầng lớp, lần này không những của Phật tử mà
còn các giới trí thức già và trẻ đối với chính quyền đến thời điểm ấy đã lên
cao độ. Ngày đưa tiễn Nhất Linh cùng một lúc với đám tang của Nhất Linh ở Sài
Gòn.
Chúng tôi tuần hành trong im lặng qua các đường phố, ban đầu một
nhóm khoảng chừng trăm người, nhưng càng đi, bỗng thấy từ đâu, một số người đi
xe đạp xuống xe cùng bước, bộ hành đang đi bỗng xen vào hàng ngũ, khách bàng
quan lảng vảng bên ngoài cũng cất bước theo và cứ thế chúng tôi đi qua các
đường phố từ chùa Diệu Ðế qua phố chợ Trần Hưng Ðạo, qua cầu Trường Tiền, người
đi càng lúc càng đông, học sinh, giáo chức, sinh viên, thanh niên, nghệ sĩ bỗng
như được một phép mầu thúc đẩy từ mọi ngả tụ về. Qua chợ Ðông Ba, đã thấy những
vòng hoa đột nhiên trong tay những người đi trước, hương, đèn tự nhiên không
chân mà đến nằm trong tay của mỗi người. Chúng tôi truy điệu Nhất Linh bằng
những hương hoa của các nhà hảo tâm vô danh, bằng tiếng chuông chùa Từ Ðàm của
những người tự nguyện gióng lên và bằng lời cầu nguyện thành tâm của đoàn người
diễn hành vừa đi vừa niệm "Nam mô thiếp dẫn đạo sư A di đà Phật" vang
vọng trên khắp các nẻo đường, bằng những bước đi lang thang bất định, vu vơ góp
nhặt từng tình cảm mà người qua đường – khi nghe tuần hành tiễn nhà văn Nhất
Linh – đã dừng lại và gửi theo, như một cuộc "nhặt lá bàng" trong một
đêm lộng gió - chỉ khác cuộc tuần hành hôm ấy nóng cháy cơn lửa hạ nồng. Chúng
tôi đi như thế, chân bước như không muốn dừng lại nữa.
Riêng tôi, trên đường đi tôi cảm nhận hơn một lần, hình như đưa
tiễn Nhất Linh tôi đang đưa tôi, đang đưa một chặng đường văn học của quãng đời
thanh xuân của mình. Trong tất cả những phê bình nhóm Tự Lực Văn Đoàn vào những
thập niên sau của nhóm tả khuynh, một điều đã không được nêu ra hay nếu có nêu
ra thì cũng xen lẫn với một nụ cười hoài nghi hay bẽn lẽn không chịu thừa nhận:
trong giai đoạn văn chương chuyển tiếp chính Tự Lực Văn Đoàn đã cho thế hệ
40/50/60 và có lẽ nửa thập niên 70 thấm nhuần một văn phong nhẹ nhàng, trong
sáng, chững chạc và chuẩn mực của ngôn ngữ Việt đang dần dà chấn hưng, một công
trình hiếm có trên văn đàn Việt ngữ. Lướt qua những khía cạnh tư tưởng nhuốm
màu tiểu tư sản và lắm khi có chút vọng ngoại thời thượng (mà có lẽ ngày hôm
nay lại được xem như là một mốt "trở về" lắm khi còn kệch cỡm hơn)
văn học Nhất Linh và Tự Lực Văn Đoàn đã đưa người đọc "trở về" với
thiên nhiên Việt Nam, đánh động sự nhạy cảm sáng tạo qua từng cảm xúc với thiên
nhiên và thế giới bên ngoài. Hình như tôi nhớ không lầm, những đêm trăng ở Huế,
những buổi sáng mai trong khu vườn cây xanh, giọt mưa đầu mùa, hoa cau thơm
trong vưòn, hoa bưởi về khuya, hoa khế lấp lánh trong nắng, màu quả na xanh như
ngọc... tất cả những ấn tượng này tôi đã thâm nhập không ít thì nhiều qua Nhất
Linh. Phần nhiều chỉ là những ngón tay chỉ tín hiệu đường đi trong những năm
tập viết… Có nhiều đoạn văn của nhóm TLVÐ tôi đã thuộc nằm lòng:
"Duy nhìn lên, giàn đậu ván in lên nền trời xanh những chiếc
lá xanh lục, những bông hoa màu tím nhạt…bỗng nhiên cả một quãng đời thơ ấu
hiện ra, đầy ý tưởng trong sạch và đầy ý muốn làm việc thiện“ (Hoàng Ðạo, Con
đường sáng).
Chừng đó cũng đủ gợi cho tâm thức một thứ ánh sáng thúc giục lên
đường… để tự giác ngộ. Rất nhiều góp nhặt thu lượm vô thức trong lúc mê mải
ngấu nghiến món ăn tinh thần hầu như duy nhất của thời xa, với thành tâm trong
văn chương và không chút ngụy tín trong ngôn ngữ, hình như đó là con người Nhất
Linh: "Ðối với tôi, những cơn gió tôi chờ đón đã nổi lên, khiến tôi đêm
qua lạnh cả tâm hồn, nhưng lá bàng nhặt được không là bao. Lại không biết có ấm
được lòng ai ở xa không?" (Nhất Linh, Ðôi bạn)
Tôi đã đưa tiễn Nhất Linh trên đường lên chùa Từ Ðàm với một chút
"lòng sao lạnh" xen lẫn tri ân…
THÁI KIM LAN (tác giả giữ bản quyền)
______________________________________
ĐÓN ĐỌC BÔNG TRÀM CHUYÊN ĐỀ ĐẶC BIỆT
KỶ NIỆM 50 NĂM NGÀY MẤT NHÀ VĂN NHẤT LINH
>> Vui lòng nhấp chuột vào hình ảnh phía dưới để vào mục lục số đặc biệt <<
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét