Vùng Gò Công (Tiền Giang) quê nội tôi có rấy nhiều kinh rạch, nét đặc
trưng của miền Tây Nam
bộ. Hệ thống sông ngòi thuận lợi cho lưu thông, điều tiết nguồn nước sản xuất,
sinh hoạt… Đó là nói chung về kinh tế, còn về cảm xúc tâm hồn lắng đọng trong
từng con người thì có lẽ trong ký ức sâu thẳm ai cũng có một dòng kinh, một
khúc sông đầy kỷ niệm. Người Tiền Giang xa quê, mỗi lúc hồi tưởng nơi chôn nhau
cắt rún chắc không quên được những bến đò ngang quen thuộc, có bóng mát cây
cao, có ghe xuồng xuôi ngược, sông nước hài hòa…
Nhà tôi ở bên này sông Gò Công, phía dưới cầu Long Chánh thị xã một
chút, bên kia gọi là xóm Đạo. Thuở ấy nhà cửa không nhiều, bến sông rộng có cây
cầu ván cho bà con gánh nước về sử dụng. Đó cũng là nơi bọn trẻ chúng tôi
thường ra chơi tắm sông hoặc câu cá. Chỉ với vỏ lon sữa bò quấn cuộn dây nhợ có
miếng chì nhỏ, lưỡi câu và mớ mồi trùn; ngồi câu đôi giờ là giật được khá nhiều
cá chốt, cá mang ếch… Xách giỏ cá về nhà, má thấy con mình lấm lem hôi bùn mà
miệng cười toe toét, chỉ rầy đôi câu rồi thôi. Chiều ăn cơm có món cá chốt kho
sả, má gắp bỏ vào chén con những cặp trứng cá vàng thơm như để thưởng công. Giờ
má mất rồi, mỗi lần nhìn dòng sông lại nhớ dáng má đứng che mắt trông con bên
hè nhà. Có khi hẹn nhau lúc nước đứng lớn, bọn tôi tắm sông lặn hụp chán chê
lại thả trôi theo dòng lên phía Kinh Hàn từ thời Tây, đã lâu không còn sử dụng.
Mấy ông chài lưới thỉnh thoảng lặn xuống mò nơi kẹt đá bắt tôm càng nướng nhậu.
Tôi nhớ một ông già mỗi lần uống rượu hay nghêu ngao đôi câu nghe buồn cười, mà
biết đâu cũng là nỗi niềm riêng tư? “Mồ
cha thằng đốn cây bần/ Không cho ghe cá đặng gần ghe tôm”. Phía bên này có
một bãi bồi khá rộng, các loại cây chịu mặn như bần, mắm mọc vươn cao, chen
chúc dưới gốc là cốc kèn, ô rô, mái dầm… Chơi trốn tìm trong lùm bụi hoang sơ
rồi bắt vọp, bắt còng cho tới lúc lạnh gần tím môi mới kéo nhau về. Thường thì
mười đứa phải có ít nhất năm đứa bị đòn vì tội tắm sông không có người lớn
trông chừng.
Bần mọc ven sông nhiều lắm, có những cây cao hơn mười mét, trái lớn trái
nhỏ lủng lẳng đầy cành. Bông bần, búp bần mới hé nhị xinh xinh, màu trắng pha
chút hồng phấn, nhụy hoa xòe ra phơ phất những sợi li ti trắng bạc theo gió rơi
đầy mặt sông. Bần chín rụng thơm lạ lùng, mùi hương phảng phất cả không gian
bãi bồi vắng bẻ. Lội bùn lòng vòng, ngó quanh quất chọn những trái bần thật to
gần bằng miệng chén, xanh mướt và nặng trịch, để trèo lên hái về khoe cùng
chúng bạn. Chấm muối ớt ăn vị chua thanh thanh, nhai cùng hạt hơi chát vừa đủ ê
răng. Sau này có dịp đi theo đường thủy dọc sông Tiền, sông Hậu mới thấy cây
bần tự mọc và sinh sôi vô số khắp hai bên bờ. Và được biết thêm rằng cây bần có
vị thế rất lớn trong xuất khẩu của Bồ Đào Nha. Nút bần có tác dụng giữ được lâu
hương vị thơm ngon của rượu. Chút giá trị vật chất trên đã nâng lên phần nào vị
trí loại cây thường được dùng làm hình tượng ghép chung với phận người kém may
mắn hoặc sống đời cơ cực. Bỗng dưng liên tưởng tới tâm sự người con gái trong
bài hát “Em về miệt Thứ” của nhạc sĩ Hà Phương: “Bông bần rụng trắng bờ sông/ Lấy chồng xa xứ khó mong ngày về…”.
Chợt nhớ câu ca dao không kém xót xa: “Thân
em như trái bần trôi/ Sóng dập gió dồi biết tắp vào đâu?”. Câu hỏi như một
lời than lạc lỏng giữa dòng đời vô định. Số phận đã thế thì thôi, ủi an nhau
bằng những lời nghe tựa như khinh bạc mà đầy trắc ẩn: “Không thương em hổng có cần/ Trầm hương khó kiếm chớ đước, bần thiếu
chi” hoặc lời chí tình chí nghĩa: “Phụ
mẫu đánh anh quặt què quặt quại/ Đem anh treo tại nhánh bần/ Rủi đứt dây mà rớt
xuống/ Anh cũng lần mò kiếm em”.
Chừng lên trung học, bọn trẻ chúng tôi dám lội sông xa hơn, ra tới ngã
ba, cặp mé tránh chỗ xoáy nước rồi bám vào chân Cầu Cây để vớt rạm. Khoảng
tháng 9, tháng 10 âm lịch từng đàn rạm trôi xuôi dòng nước, bọn tôi dùng rổ,
vợt lưới đón bắt. Cũng phải nhanh tay bởi chúng lặn hụp, né tránh rất tài tình.
Rạm nhỏ hơn cua đồng, mình dẹt, vỏ mỏng, không hung hăng như còng. Con đực
nhiều thịt, mỡ trắng đục, béo. Con cái thì mai đầy gạch son, hấp dẫn hơn. Rạm
làm được nhiều món như rang mỡ hành, nấu canh chua lá me, nướng than, chiên
giòn… Nhưng chúng tôi chỉ khoái rang với chút muối ớt, ăn kẹp cùng bần chua xắt
lát, đơn giản mà lại gọn gàng. Thêm vài năm sau, lớn thêm một chút, đôi khi ra
mé sông tôi có chú ý tới một… cô gái ở bờ bên kia, có lẽ trạc tuổi, nhìn không
rõ mặt. Cô hay mặc chiếc áo màu hoa cà, tóc kẹp dài, ngồi rửa chén hay giặt giũ
chi đó. Những cây bần ven bờ tôi nhìn quen mắt, giờ sao cảm thấy gần gũi lạ
lùng. Riết rồi cô gái ấy cũng biết có tên học trò xa lạ trộm nhìn, tôi ngó qua
chừng một lúc thì cô đứng lên thu dọn đồ rồi… quay lưng. Tôi mơ mộng gần hết
mùa hè, chưa kịp buổi khai trường thì cô vắng biệt, sau mới biết nhà cô dọn đi
xa. Tới giờ vẫn chưa biết tên cô, chưa nhìn tận mặt mà lâu lâu lại nhớ. Tôi bắt
đầu đọc thơ rồi yêu thơ, những bài thơ giấu trong cặp sách. Chút tình cảm đầu
đời hay vấn vương, trong sáng nên khó nhạt phai chăng?
Dòng sông nay vẫn còn, nhưng khác xưa nhiều lắm. Nước đục lờ màu uế tạp,
lục bình dày đặc ngoi tìm chút nắng, cống đập ngăn dòng không biết được nước
đang ròng hay lớn. Bãi bồi bị lấn chiếm để xây cất nhà ở khiến hàng cây bần,
cây mắm, ô rô, cốc kèn… biến mất dần. Kỷ niệm cũ chắp vá trong cơn mơ thảng
thốt, đứt đoạn vô tình. Lục tìm những câu ca dao, đọc thầm cho riêng mình nghe…
“Chiều chiều xuống bến ba lần/ Tìm em
không thấy, thấy bần xơ rơ”. Rồi tự huyển hoặc bằng lời dịu ngọt bên tai
như hơi thở… “Lẻ đôi em chịu lẻ đôi/ Hoa
tàn em cũng đợi, bần trôi em cũng chờ”. Bên kia sông nhà cửa san sát, bến
nước cùng những cây bần quen thuộc không còn nữa. Lại cay cay đôi mắt, thì thầm
câu ca dao đầy bùi ngùi, thương cảm “Neo
ghe vô dựa gốc bần/ Em thương anh nói vậy chớ biết mình đặng gần hay không?”…
NGUYỄN KIM
______________
Những hình ảnh mộc mạc, giản đơn ấy luôn là nỗi ám ảnh day dứt khôn nguôi của người miệt vườn. Cám ơn tác giả đã viết lên những cảm xúc thật của mình thay lời cho biết bao người con miền Tây,
Trả lờiXóa