- Trang chủ
- |
- Giới thiệu
- |
- Quy ước
- |
- Tác giả
- |
- Thư ngỏ
- |
- Lá thư Bông Tràm
Tác phẩm kỷ niệm 10 năm hoạt động của Bông Tràm, có sự góp mặt của 50 tác giả với trên 100 tác phẩm. Sách dày 312 trang, khổ 13 x 19 cm, giá 100.000 đồng.
1. TỪ MỘT TẬP QUÁN
Tự bao đời nay, cư dân hai bên bờ sông Hậu cũng như bao vùng
miền khác, khi trai gái lớn lên thì được cha mẹ đôi bên cậy nhờ mai mối rồi
dựng vợ gả chồng. Đôi trẻ nên duyên giai ngẫu sanh con đẻ cháu duy trì nòi
giống và bảo tồn những giá trị văn hóa từ thế hệ này truyền lại cho thế hệ kia.
Song, xung quanh chuyện vợ chồng cũng có rất nhiều cung bậc, giàu cảm xúc thậm
chí có cả những éo le, truân chuyên, trắc trở. Từ thực tế đời sống người miền
quê những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, chúng tôi xin có đôi lời tản mạn
về tập tục làm dâu, cùng với đó là những gian nan của biết bao thân phận đờn
bà, chìm nổi trong mười hai bến nước nợ duyên.
Khi dân tứ xứ di cư vào miền đất mới khẩn hoang, định cư sinh
sống, người Việt đã mang theo nét văn hóa của chế độ phụ hệ truyền thống. Trai
cưới gái về làm vợ, làm dâu. Gái xuất giá theo chồng và làm vợ làm mẹ, phụng sự
gia đình bên chồng sau ngày cưới hỏi. Về quan niệm hôn nhân, người Việt ở miệt
Hậu giang ngày trước vẫn nghiêng nặng về giá trị vật chất. Một trong những tiêu
chí đầu tiên được lựa chọn là môn đăng hộ đối. Nhưng rồi, cũng có trường hợp,
cha mẹ nhà gái nghèo hơn, vì hoàn cảnh nào đó phải gả con để trừ nợ, hoặc để có
được chút ưu đãi từ bên sui trai cho công việc làm ăn, sinh sống. Từ đây, dẫn
đến nhiều nỗi thống khổ mà phận làm dâu phải chịu đựng.
2. ĐẾN THÂN PHẬN LÀM DÂU
- 2.1. CHUYỆN TRINH TIẾT, ĐÁM PHẢN BÁI VÀ TỤC HỒI DÂU
Ngoài chuyện môn đăng hộ đối là chuyện tiết trinh. Các bà mẹ
chồng vốn khắt khe và gay gắt, quyết liệt đối với vấn đề này. Họ khó lòng chấp
nhận phải bỏ số tiền để nộp tài, mua sắm mâm bàn, vàng vòng ra cưới một cô gái
không còn trong trắng. Đối với họ đó là một điều sỉ nhục. Người chồng của cô
dâu cũng không bao giờ muốn mình phải “ăn cơm thừa canh cặn”. Vì thế, nếu như
phát hiện ra điều không hay (dù chỉ bằng kinh nghiệm, không có cơ sở khoa học
nào) thì cô dâu mới khổ sở trăm bề. Xét về nhiều khía cạnh, nếu có thể “bỏ qua”
được, bên nhà chồng sẽ “tha thứ” nhưng đến ngày phản bái, họ sẽ “trả đũa” nhà
gái bằng cách đem sang cặp vịt rằn, mấy lá trầu héo, mấy trái cau sứt cuống để…
đáp lễ. Bên nhà gái nhận ra sự bỉ mặt này và cố gượng cười gượng nói mà lòng
đau, dạ xót vô ngần.
Nặng hơn, bên nhà trai sẽ đem dâu trả lại nhà cha mẹ của cô. Khi
ấy, khoản tiền nhà trai bỏ ra cưới hỏi nhà gái phải lo “thối hồi” cho đủ số.
Không có thì vay mượn, xoay sở bằng bất cứ giá nào. Và trên hết là cả sự nhục
nhã với họ hàng, làng xóm. Nhiều gia đình lâm vào cảnh ấy phải bồng bế, dắt díu
nhau bỏ xứ mà đi.
Qua khảo sát điền dã trong dân gian ở miền Tây sông nước, chúng
tôi còn được biết thêm, chuyện hồi dâu diễn ra không phải riêng vì chuyện
“còn”, “mất”. Có khi còn là chuyện nhà chồng phát hiện cô dâu mới có tật nào đó
mà theo tướng số ảnh hưởng đến sự làm ăn của họ. Về chuyện này, dân gian còn
lưu truyền câu ca, rằng:
Cu cu mà đỗ cửa quyền,
Lấy chồng chưa mãn ba niên lại về.
- 2.2. MUÔN NỖI ĐẮNG CAY CỦA PHẬN LÀM DÂU
Về nhà chồng làm dâu, cô dâu mới phải thức khuya dậy sớm lo nấu
nước pha trà cho cha mẹ chồng. Mọi chuyện cơm nước, giặt giũ trong gia đình
chồng cô dâu mới gần như phải đảm đương tất cả. Nếu nội, ngoại chồng còn sống
già cả, ốm đau, công việc của cô dâu mới còn nặng nề, vất vả hơn gấp nhiều lần.
Đến bữa cơm, phải lo vén khéo dọn mâm trên cha mẹ chồng và chồng, anh, chị, em
chồng cùng ăn. Phận dâu ăn cơm nguội, ở nhà ngoài. Ít khi nào cô dâu được ngồi
ăn cùng mâm với cha mẹ chồng. Và tất nhiên mâm cao cỗ đầy đã dâng cho người
trên trước, còn lại cơm thừa canh cặn mới đến lượt của dâu. Mở miệng là phải dạ
thưa, nói năng nhỏ nhẹ, đi đứng luôn cúi đầu, có oan có sai chỉ biết khóc thầm
chứ tuyệt nhiên không dám thanh minh, lên tiếng.
Mẹ già dữ lắm em ơi,
Nhịn ăn, nhịn mặc, nhịn lời mẹ cha (Ca dao)
Chuyện chưa dừng lại ở đó, nếu chẳng may cơm sống, cơm nhão hay
canh mặn, cá lạt không vừa miệng ai đó bên nhà chồng là cô dâu lãnh đủ. Nhẹ thì
bị quở mắng, nặng còn có thể bị đòn roi. Chuyện cô dâu bị đánh có thể diễn ra
bất cứ lúc nào nếu cô dâu gây ra những lỗi lầm mà theo chủ quan của cha mẹ
chồng là cần phải xử lý.
Có những cô dâu mới còn gặp những đứa em chồng quỷ quyệt, chúng
luôn tìm cách hại chị dâu để làm trò vui. Chuyện kể rằng có cô gái nọ về làm
dâu, nấu canh, nêm nếm đã vừa ăn, mới quay đi chuẩn bị dọn mâm bưng lên nhà
trên cho cha mẹ chồng, cô em chồng đã lẻn cho vào tô canh nắm muối. Bà mẹ chồng
đã hất tô canh mặn ấy vô mặt đứa dâu mới trong tiếng cười khúc khích, mãn
nguyện của kẻ đã cố tình gây ra. Trong dân gian, hình ảnh những cô em chồng đã
được dân gian cảnh báo:
Em chồng ở với chị dâu,
Coi chừng kẻo nó giết nhau có ngày (Ca dao)
Một chuyện khác dân gian miệt Sóc Trăng, Hậu Giang còn kể, nhà
nọ mới cưới dâu. Hôm ấy, người bạn xa đến thăm, cha chồng sai con dâu nướng khô
để cùng khách nhâm nhi. Nướng khô xong, cô dâu chưa kịp mang lên, mèo đã tha
mất. Cô dâu hoảng sợ đến ngất xỉu,… Những chuyện đại khái như vậy có đến hàng
trăm, hàng ngàn và nó vẫn được người ta kể cho con cháu nghe trong thời hiện
đại hôm nay.
Chuyện sinh hoạt, tiền nong cũng hết sức não nề. Phận nghèo, khi
về nhà chồng, tiền bạc đem theo đâu được là bao. Số tiền bà con họ hàng cho
trong ngày xuất giá cô gái phải để lại cho mẹ cha trả bớt nợ nần. Về nhà chồng
vừa qua phản bái thì số vàng vòng cha mẹ chồng cho ngày cưới được hai họ chứng
kiến sẽ được mẹ chồng khéo léo hỏi “mượn lại”. Như vậy, cô dâu tay trắng đã trở
về cảnh trắng tay. Nhất nhất chuyện gì đều do mẹ chồng quản lý và chi xuất.
Muốn chi tiêu dù chuyện nhỏ nhất vẫn phải lựa lời, lựa cảnh để xin. May được
cho thì nhờ, không cho thì cũng cam chịu. Như vậy, có thể thấy nhà trai bỏ tiền
ra để cưới vợ cho con có người sanh con nối dõi, nhưng xét tận cùng nhiều nàng
dâu rơi vào cảnh như người ở không công không hơn không kém.
Cũng từ kinh nghiệm bản thân đã từng chịu đựng nên nhiều bà mẹ
khi có con gái xuất giá luôn chuẩn bị cho con cái rổ may. Trong đó đựng kim,
chỉ, đá lửa, ống quẹt, dây thun luồn quần hay ít miếng vải, nút áo,… để phòng
khi có chuyện cần thì cô dâu không phải xin mẹ chồng. Chuyện hỏi xin những vật
dụng này sẽ bị mang tiếng là gái hư, thậm chí cả người mẹ của cô cũng bị mắng
mỏ, vạ lây,…
Trong thời gian làm dâu, nếu vì quá nhớ thương cha mẹ hay chẳng
may ông bà nội, ngoại qua đời, muốn xin về cô dâu phải thỏ thẻ với chồng rồi
lại phải sắm trầu, cau trình lễ để thưa với cha mẹ chồng. Gặp bên chồng dễ thì
cho dâu đi qua đêm, người khắt khe hơn thì đến chiều cô dâu phải về nhà chồng
ngủ. Đường xa, đi bằng xuồng bơi, nên nhiều khi về thăm cha mẹ chỉ vội ăn kịp
bữa cơm đã phải quay về cho kịp trước khi trời tối.
Câu ca dao quen thuộc: Má ơi đừng gả con xa/Chim kêu vượn hú
biết nhà má đâu nghe lại ngẫm ra thấy thật xót xa cho người trong cuộc.
Cuộc sống cứ thế trôi đi, cô gái sẽ sanh cho nhà chồng những đứa
cháu. May mắn sanh được con trai có khi cô dâu lại được cưng chìu, ngược lại
nếu chỉ sanh một bề là gái, cô dâu không tránh khỏi sự ghẻ lạnh. Thậm chí, bà
mẹ chồng sẽ buộc con trai bà bỏ người vợ mà bà cho là “không biết đẻ” để cưới
vợ khác. Và thế là cảnh tan đàn sẻ nghé diễn ra. Có khi cả hai vợ chồng vẫn còn
rất mực yêu thương và chẳng có mâu thuẫn gì nhưng vẫn phải xa nhau.
Ngẫm ra cũng thật lạ đời, bởi trước đó, bà mẹ chồng này cũng
cùng phận làm dâu như vậy. Nhưng đến khi có dâu, họ dường như không hề có sự
cảm thông chia sẻ mà thay vào đó là sự chì chiết cay nghiệt.
Một mối quan hệ quan trọng nữa không thể không nhắc tới đó là
người chồng. Họ đến với nhau vì tình yêu qua những lần đổi trao tình cảm khi
cùng cày thuê cuốc mướn hay giã gạo vần công. Nhưng có những trường hợp “cha mẹ
đặt đâu con ngồi đấy”, cô dâu chỉ biết mặt chồng khi đám đi chơi, đám hỏi diễn
ra. Ở trường hợp sau, họ đến với nhau vì nghĩa vụ chứ không xuất phát từ chuyện
yêu đương. Và cũng từ đây, quan niệm cưới vợ để sanh con chứ không quá nặng
tình. Người chồng nhiều lúc dửng dưng, thiếu cả sự chia sẻ với người cùng chăn
gối. Điều đó, càng làm cho phận má hồng thêm cay đắng, ngâm ngùi. Quan niệm
“chồng chúa vợ tôi” không phải là không tồn tại trong đời sống gia đình của cư
dân vùng Cửu Long giang.
3. CHUYỆN XƯA CÒN PHẢNG PHẤT
Ngày nay, khi không gian văn hóa đã thay đổi, đời sống người dân
đã được cải thiện nhiều. Trai gái đến với nhau tự do, tự nguyện. Mối quan hệ
gia đình theo truyền thống vẫn tồn tại nhưng không còn quá cổ hủ và ràng buộc,
chính vì thế phận làm dâu cũng đã nhẹ nhàng hơn rất nhiều.
Những nét văn hóa dân gian từng tồn tại trên mảnh đất cuối trời
Nam của Tổ quốc đã dần lùi vào dĩ vãng. Còn chăng là qua ký ức của những bậc
cao niên, qua những lời kể cho con cháu nghe mà hình dung trong lúc trà dư tửu
hậu…
Minh Thương
© Tác giả giữ bản quyền. Vui lòng ghi rõ nguồn Bông Tràm khi sử dụng lại nội dung này.
|
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét