- Trang chủ
- |
- Giới thiệu
- |
- Quy ước
- |
- Tác giả
- |
- Thư ngỏ
- |
- Lá thư Bông Tràm
Tác phẩm kỷ niệm 10 năm hoạt động của Bông Tràm, có sự góp mặt của 50 tác giả với trên 100 tác phẩm. Sách dày 312 trang, khổ 13 x 19 cm, giá 100.000 đồng.
Một chiều mùa đông, sau những bước chân lang thang trên những con phố vòng quanh mặt hồ khói sương bảng lảng tôi tìm về với ngôi cổ tự thuộc hàng danh thắng bậc nhất ở đất kinh kỳ nằm phía cuối đường Thanh Niên: chùa Trấn Quốc để được thả mình vào cái bức tranh trầm mặc, tĩnh lặng của đất trời sóng nước Hồ Tây hòng khỏa lấp những âu lo phiền muộn và tìm lại cho tâm hồn cái an yên thư thái ở chốn thiền môn. Hồ Tây chiều nay không có cái mộng mơ, kiêu sa của “mặt nước vàng lay” mà chỉ có bàng bạc một “màu sương thương nhớ” đang trải ra giữa không gian mênh mông cùng muôn vàn con sóng nhỏ lăn tăn đuổi nhau trên mặt nước bao la như thể đang chờ màn đêm buông xuống để đón cái lạnh dịu ngọt ùa về khiến cho bao người chẳng đeo mắc cái tâm trạng hẹn hò tương tư hè phố thì cũng man mác, khắc khoải một hoài niệm xa xôi nào đó. Chẳng hiểu cảnh chùa xanh mát, u tịch, cổ kính, trang nghiêm với những cây cao bóng cả và trầm nhang thoang thoảng đưa hương hay những cơn gió se lạnh trào lên từ mặt nước mờ mịt sương mù mà lòng bỗng chùng xuống man mác với những nhớ nhớ thương thương. Cứ thế, bất giác trong người lại thấy rộn lên những vần thơ trang nhã, diễm lệ, đài các ngợi ca cái cảnh sắc diệu kỳ của Hồ Tây của các danh sỹ một thời xen lẫn những vần thơ cũng chất chứa những nỗi niềm của người nữ sĩ tài hoa đất Nghi Tàm thủa xưa (Bà Huyện Thanh Quan).
Khởi đầu là hành trình du ngoạn vòng quanh Hồ
Tây và “Đường Cổ Ngư xưa chầm chậm bước ta về”, tức con đường Thanh Niên, con
đường thơ mộng trữ tình nhất thủ đô, hai bên đường xanh rợp bóng cây, xôn xao
sóng nước, cuối chiều nhộn nhịp tựa như công viên và đấy cũng là chốn hò hẹn,
dập dìu của nam thanh nữ tú hay những lẵng khách tìm về để ngắm nhìn, thả hồn
vào cái bao la của mặt nước: “Sắc rờn rờn nhuộm thức lam xanh/ Ngỡ động bích
nổi lên dòng lẻo lẻo/ Hình lượn lượn uốn vòng câu bạc/ Tưởng vầng ngân rơi
xuống mảnh nhò nhò/ Dư nghìn mẫu nước trời lẫn sắc/ Trải bốn bên hoa cỏ nhiều
mùa” (Nguyễn Huy Lượng - Tụng Tây Hồ phú). Và ngẫm nghĩ về cái phồn
hoa của vùng đất Hồ Tây cùng con đường tình yêu từng thịnh suy theo những thăng
trầm lịch sử của kinh thành Thăng Long. Cái thời Hồ Tây thịnh vượng với những
hành cung lộng lẫy mà vua yêu chúa mến thì nơi đây đêm ngày “ngựa xe như nước
áo quần như nêm” từng được Nguyễn Huy Lượng kể rằng: “Trải
Trần trước đã nhiều phen xe ngựa/ Tới Lê sau càng lắm độ tán dù” (Nguyễn
Huy Lượng - Tụng Tây Hồ phú). Người ta kể rằng, cái thời Tây Hồ huy hoàng nhất,
chúa Trịnh Giang cho lập một ly cung ở Khán Xuân (một làng ở bên bờ Nam của
hồ). Chúa cho dựng những dãy nhà quán để bán hàng. Hằng năm, khi hè đến chúa ra
đó hóng mát. Đêm đến nội thần, cung nữ mở chợ bày hàng mua bán, đàn hát vang ca,
đốt đèn rước đuốc chạy đi chạy lại sáng rực một góc kinh thành. Kể từ khi dời
đô về Đại La, xung quanh Hồ Tây, trải qua các vương triều ở Thăng Long đã có
biết bao công trình được coi là những trung tâm giải trí được xếp vào hàng bậc
nhất đế vương. Chẳng như cung Dâm Đàm, Thúy Hoa,
Từ Hoa, Quan Ngư thời nhà Lý; điện Hàm Nguyên, cung Ngọc Đài thời nhà Trần; điện
Thụy Chương và tám cảnh đẹp: đàn thề Đồng Cổ, bến Trúc Nghi Tàm, Sâm Cầm, rừng
bàng Yên Thái, đồng bông Nghi Tàm, tiếng đàn Hành Cung, chợ đêm Khán Xuân,
tượng Phật say ở Thụy Chương… thời Lê - Trịnh. Như thế bảo sao Hồ Tây chẳng hút
hồn những tao nhân mặc khách, khiến cho “Người ngoạn cảnh thẩn thơ đòi đoạn/
Khách
thâu nhàn lai láng từng khu/ Ngang thành thị, ghé yên hà một thú/ Dọc phố
phường, tung phong nguyệt hai kho” (Nguyễn Huy Lượng - Tụng Tây Hồ
phú).
Ấy vậy, thế sự thăng trầm với những vật đổi sao
dời khi nhà Nguyễn lật đổ nhà Tây Sơn rồi chuyển kinh đô từ Thăng Long vào Phú
Xuân (Huế) thì số phận của những con đường tấp nập và lầu son gác tía ở vùng ven
Hồ Tây phồn hoa ấy cũng rơi vào cảnh “Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo/ Nền cũ lâu
đài bóng tịch dương” (Bà Huyện Thanh Quan - Thăng Long thành hoài cổ) khiến cho
bao người đã âm thầm nhỏ lệ: “Nghìn năm dinh thự thành quan lộ/ Một dải tàn thành lấp cố cung” (Nguyễn Du -
Thành Thăng Long); “Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt/ Nước còn cau
mặt với tang thương” ((Bà Huyện
Thanh Quan - Thăng Long thành hoài cổ).
Điểm dừng chân cuối cho một chiều lang
thang phố hồ là hành cung Trấn Quốc trên bán đảo Kim Ngư (Cá Vàng). Chùa Trấn
Quốc một bảo vật của Hà Nội, một tinh hoa văn hóa của Hồ Tây ở đất Thăng Long.
Hành cung Trấn Quốc chính là chùa Khai Quốc (còn gọi là Trấn Quốc hay Trấn Bắc).
Ngôi chùa cổ kính danh tiếng nhất của Hà Thành có tuổi đời khoảng gần một ngàn
năm trăm năm (được làm từ thời vua Lý Nam Đế, 541 - 547) đang mang trong mình
biết bao trầm tích của kinh thành (trong chùa hiện giữ nhiều pho tượng có giá
trị nghệ thuật, tiêu biểu như tượng Thích Ca nhập niết bàn bằng gỗ sơn son thiếp
vàng; mười bốn văn bia, khu mộ tháp và bảo tháp Lục độ đài sen cao 15m với 11 tầng, mỗi tầng có 6
bức tượng đức Phật A Di Đà bằng đá quý màu trắng, đỉnh tháp cũng có một tòa sen
bằng đá quý; đối diện với bảo tháp có cây bồ đề lớn do Tổng thống Ấn Độ tặng
khi ông đến thăm Hà Nội năm 1959) và cũng là một
chứng nhân lâu đời của Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội gắn với biết bao thăng trầm
của “một thời đạn bom, một thời hòa bình”. Cổ tự uy nghiêm ấy cũng đã có một thời
từng là hành cung của các vua chúa mà hằng đêm vẫn vang rộn tiếng đàn ca của những
cung nữ làm mê mẩn các đấng quân vương và cũng từng là nguồn cảm hứng thi phú bất
tận cho biết bao tao nhân mặc khách. Người ta bảo rằng, khi xưa chùa nằm bên
bãi Yên Hoa (sau đổi là Yên Phụ) do sự sạt lở của sông Hồng nên đời vua Lê Kính
Tông (1600 – 1618) người ta đã chuyển chùa về đảo Kim Ngư trong lòng Hồ Tây. Đảo
Kim Ngư này vốn trước đây, thời Lý và thời Trần, từng được các đời vua xây dựng
cung Thúy Hoa và điện Hàm Nguyên để mỗi khi rảnh rỗi lại tìm ra ngắm cảnh, hóng
mát, xem đua thuyền, đánh cá… Thời thịnh trị của phật giáo trên đảo Kim Ngư từng
là một trung tâm phật giáo của thành Thăng Long. Chùa ấy cũng là nơi thụ huấn
giáo lý và thụ nghiệp của nhiều thiền sư theo Vô Ngôn, nổi tiếng như Văn Phong,
Khuông Việt… (sư Khuông Việt từng được vua Đinh Tiên Hoàng và Lê Đại Hành mời về
Hoa Lư làm cố vấn tối cao cho triều đình). Cũng chính tại nơi đây cũng trực tiếp
Thái hậu Ỷ Lan đã cho mở tiệc chay chiêu đãi các thiền sư kê cứu kinh Phật. Thắng
cảnh Trấn Quốc kề bên Hồ Tây rất đẹp. Đẹp đến mức người xưa phải thốt lên và tạc
vào bia đá: “lên cao ngắm cảnh, mây nước mênh mang, nước hồ óng ánh trong suốt
khiến lòng người không hư, tiếng chuông chùa gọi tỉnh mộng trần tục…” và Tiến
sĩ nhà Lê, Phạm Quý Thích cũng phải tức cảnh sinh tình mà đề thơ rằng: “Tây Hồ
hồ thượng hà niên tự/ Cổ thụ âm âm trúc thạch tùng/ Trần đế quan ngư không thử
địa/ Tiên sinh lạc thủy hữu danh tùng/ Nhất hoằng thu kính khai tình nhật/ Thập
lý hà hoa tống văn phong/ Bất dụng quy y cầu đến ngộ/ Lai lâm nhất vị phủ cô
tùng” (Già lam có tự bao giờ/ Xanh xanh cây cỏ bên bờ tốt tươi/ Đá câu là chỗ
vua ngồi/ Đất bằng là chỗ thảnh thơi khách nằm/ Mặt hồ sóng gợn lăn tăn/ Ao thu
se lạnh ngắt tầm hương sen/ Vào chùa ai nấy tham thiền/ Ta say ngắm nghĩa cây
thiêng ngàn đời).
Đắm chìm trong cái không gian xanh mát phảng phất
nhang trầm; miên man trong cái dịu ngọt của người xưa như thế nhưng chẳng hiểu
sao lòng bỗng hiện về một Thăng Long u ám của cái thời Hậu Lê trăm năm dâu bể:
“Tạo hóa gây chi cuộc hý trường/
Đến nay thấm thoắt mấy phong sương” (Bà Huyện Thanh Quan - Thăng
Long thành hoài cổ). “Hý trường” là sân khấu. Mặt đất này cũng chỉ
là nơi diễn trò ông trời mà thôi. Cho nên hai tiếng “gây chi” của Bà Huyện
Thanh Quan vừa như lời than lại vừa như một lời oán thán con tạo. Cứ nghĩ đến
thế tôi lại hình dung ra đôi mắt buồn vương của nữ sỹ đang thả ra giữa cái mênh
mông vô định của mặt nước trong tiếng thở dài ngao ngán, ấm ức: “Trấn Bắc hành
cung cỏ dãi dầu/ Chạnh niềm cố
quốc nghĩ mà đau/ Mấy tòa sen rớt hơi hương ngự/ Năm thức mây phong nếp áo
chầu/ Sóng lớp phế hưng coi đã rộn/ Chuông hồi kim cổ lắng càng mau/ Người xưa
cảnh cũ nào đâu tá/ Ngơ ngẩn lòng thu khách bạc đầu” (Bà Huyện Thanh Quan - Chùa
Trấn Bắc). Cung vua phủ chúa, lầu son gác tía lộng lẫy nguy nga với những cung
đường ngang dọc kinh thành đêm ngày nhộn nhịp ngựa xe vào ra của các ông hoàng,
bà chúa, vương công, quốc thích… tưởng như bền vững đến muôn đời mà bỗng chốc cũng
trở thành “hồn thu thảo”, “bóng tịch dương” thì “Trấn Bắc hành cung cỏ dãi dầu”
cũng không phải là điều không tưởng. Mọi thứ trên đời đều có thể đổi thay duy
chỉ có một niềm ái quốc trung quân của người xưa là không thay đổi nên “Chạnh
niềm cố quốc nghĩ mà đau”. Bởi thế trong cơn hưng phế của con tạo xoay vần nữ lưu
tài sắc vẫn mơ màng phảng phất đâu đó trong cái “hồn thu thảo”, “bóng tịch
dương”, “cỏ dãi dầu” vẫn còn “hơi hương ngự”, “nếp áo chầu” để rồi khắc khoải
“Người xưa cảnh cũ nào đâu tá/ Ngơ ngẩn lòng thu khách bạc đầu”. Một câu hỏi
không lời đáp, ném vào hư không, để cuối cùng chỉ còn lại “Một mảnh tình riêng
ta với ta” (Bà Huyện Thanh quan - Qua đèo Ngang).
Màn đêm dần buông trên mặt nước, Hồ Tây mờ mịt hơi
sương bỗng khoác lên mình một cái áo mới lung linh sắc màu trong những ánh điện
lấp lánh khi thành phố lên đèn. Con đường tình yêu (đường Thanh Niên) xe cộ
cũng bớt rộn ràng nhường chỗ cho người tản bộ. Trên những ghế đá hay trên những
vỉa hè Hồ Tây những cặp uyên ương tây ta ríu rít tay trong tay thong dong thả
bước hay lặng yên tận hưởng cái không khí lãng mạn của đêm tối và đón đợi những
vì sao đêm. Những xô bồ vất vả mưu sinh dường như không có ở chốn này, phố
phường bỗng trở nên bình yên đến lạ, cuộc sống của Hà thành như thể đang chậm
lại… Những hoài niệm man mác cũng chợt biến tan. Hồ Tây như thế khác nào một
bản giao hưởng đầy sắc màu của cảm xúc. Cứ thế bảo sao người ta cứ tìm về và
không yêu, không quý Hồ Tây cho được!
Đào Thị Thu Hiền
© Tác giả giữ bản quyền. Vui lòng ghi rõ nguồn Bông Tràm khi sử dụng lại nội dung này.
|
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét