Chỉ là một tảng đá thôi mà ba.
Tam nhìn Phúc. Con gái anh vẫn còn nhỏ nhắn, nét mặt kinh
hãi hôm nó ngồi khóc chỗ cầu thang vẫn rành rạnh trong trí nhớ của anh. Sao nó
nói chuyện cứ như trần ai này khổ nào ta cũng đã nếm. Một tảng đá thôi mà.
Nhưng cái đá tảng đó bằng cái nhà và đã có năm sáu mạng người đã bẹp dí
dưới nó.
Những tảng đá từng cheo leo nhiều trăm năm. Bên điện Huỳnh
Long, vồ Bà cũng có những tảng đá như vậy. Ngồi dưới đất nhìn lên không thấy chỗ
nào an toàn. Trước giờ không ai sợ vì tin vào những lạ lùng của thiên
nhiên. Nhưng giờ thì cái lạ lùng đó bị phá vỡ. Chuyên gia đã khảo sát. Đường
lên xuống bị cấm nhiều ngày. Mấy xóm núi không khác gì trở về thời bao cấp. Đội
thanh niên tình nguyện cõng gạo, mì và nhiều loại nhu yếu phẩm tiếp tế. Anh
cũng cõng. Mươi ký gạo, một nồi thịt kho hột vịt. Người anh ướt mồ hôi. Mọi
hình ảnh trước mặt cứ lờ mờ. Anh có cảm giác trước mặt là cái vực. Từng bước
anh cứ chới với.
Con gái gầy đét. Nó đã ốm yếu từ nhỏ mà giờ chỉ toàn su su
và măng xào. Tam châu mày, hơi thở lơ đãng.
- Con xuống núi dạy đi.
- Dưới núi trường tiểu học không có chỗ cho giáo viên ở ba
à.
- Con về huyện nhà. Ba nhờ người xin cho con về trường gần
nhà, dạy khỏe hơn.
Phúc cúi xuống. Đầu lắc nhẹ như nó đang luôn miệng nói với
anh chữ không.
- Con sẽ có chồng trên núi.
…
Tam đứng nhìn con đường dốc, nghe cái lạnh chạy vào tận nơi
sâu nhất của hơi thở, tỏa ra từng lỗ chân lông. Anh đi bộ lên dốc. Không biết
hôm nay già Lâm có ở nhà không? Anh cứ bước, nếu không có già ở nhà anh sẽ ở vồ
Cấm một mình. Sao lần nào anh đi trên con đường này tâm trạng đều luôn nặng nề.
Lần đầu tiên anh lên cách đây đã mười mấy năm, leo trên từng bậc đá. Đó là lúc
anh vừa bỏ lại sau lưng những đêm thức trắng lao lực kiếm tiền. Bỏ lại những
ngày bệnh tật mà vợ không ngó ngàng. Sắp lắc, sạt bình, quấn mô tưa, cái nghề dễ
kiếm ăn thời điện đóm khó khăn. Cày ngày cày đêm suốt mười mấy năm. Nhà cửa đã
khang trang nhưng người đã rệu. Trong máu trong thịt vẫn còn những cơn đau do
nhiễm độc chì. Cuối cùng anh được cái gì. À được một đứa con gái sẵn sàng theo
anh đi tới bất cứ chốn nào. Con gái anh tìm tới núi có phải cũng giống như anh
hồi mười năm trước?
*
Tam lên vồ chỉ vì chữ Cấm. Ví dụ như là đồi cấm, hang cấm
anh cũng sẽ lên. Chính mắt anh chứng kiến những điều lạ lùng về vồ Cấm, anh đã
coi nó như một chốn không dính gì tới loài người. Người chỉ đường cũng nói khó
lắm, đừng đi. Thật ra không phải người ta nói khó ở đường đi. Mà là những linh
thiêng của vồ Cấm.
Anh cứ hướng đó mà bước. Không định là sẽ đi tìm cái gì. Có
cảm giác lỡ gặp một hang sâu anh sẽ chui xuống. Nếu phải như bác vật Lang
xuống hang Công Đức rồi tịnh khẩu luôn cũng được.
Gió bấc ve vẫy cái đuôi. Sương tụ tập từng đợt dầy. Hai đứa
nó xúm lại đập vào mặt người đi đường. Cái lạnh tới sớm hơn bình thường. Anh
không biết vồ Cấm còn xa không. Đôi chân đã đuối nhừ. Trước một ngôi nhà lẻ loi
có một cái võng giăng giữa hai cây tràm bông vàng. Anh leo lên võng nằm, nhắm mắt
lại. Trong đầu đầy ánh mắt lao xao của Linh. “Anh về đây làm gì? Cất cái nhà
cho bự mà không ở, về đây không chia chác được gì đâu.” Anh không nói gì được.
Rõ ràng đứa em nói đúng. Sự im lặng của anh không làm nguôi ngoai lo lắng của đứa
em “Anh không thấy chật sao?”
Có thấy. Chật không nhúc nhích nổi. Chật muốn nghẹt thở, đứng
giữa núi rừng quang đãng, hít đầy ngực vẫn nghe ngột ngạt từng lỗ chân
lông. Nhưng anh còn chỗ nào đi nữa đâu. Không thể ước trên đời ta chỉ có
mỗi ta. Để có thể bỏ hết vào chùa hay lên chỗ núi non ẩn dật. Anh cứ sợ cái ý
nghĩ “muốn có một mình” sẽ dẫn đến một tình huống đột ngột bé Phúc biến mất khỏi
cuộc đời anh. Anh hiểu tận cùng của cái chữ bế tắc. Đó là khi có nhiều con đường
trước mặt mà chân không thể nhúc nhích được miếng nào.
- Dậy đi. Ở đây đêm lạnh lắm, ngủ không được đâu.
Anh mở mắt nhìn người đàn ông. Ông có gương mặt đầy góc cạnh.
Lạ hoắc. Anh lại nhớ tới một gương mặt khác, hoàn toàn không góc cạnh mà còn
quen thuộc. Thường thì mỗi khi về nhà khuya anh thường gặp? Linh có nét của
anh, máu thịt lắm. Nhưng anh lại sợ nhìn thấy gương mặt em gái mình sau cửa…
Thường là những cái ngái ngủ “Biết mấy giờ không? Sao mà có thứ người…”. Anh
không nói tiếng nào. Có lần anh gọi cửa mãi cũng không ai ra mở. Họ ngủ mê rồi.
Anh không thể gọi to hơn. Để bà già thức giấc coi như sẽ nghe rầy nguyên đêm. Vậy
là anh cứ ngồi bên hàng ba nhà mình…
Đáng lẽ anh không nên đi khuya. Nhưng ở nhà càng đáng sợ
hơn. Không ai nói chuyện với anh. Bé Phúc dạo này cũng lười nói. Nó chỉ cắm đầu
vào cuốn vở. Đó là cách tốt nhất để má anh yên lòng. Anh thường một mình ra khỏi
nhà, muốn chạy xa hơn, chạy mãi không về. Những lần sau anh không vào bằng cửa
chính nữa. Anh theo cột, leo lên gác. Đã thủ sẵn cái mùng ngủ ở hàng ba. Nếu trời
mưa bé Phúc giật mình thức dậy leo lên gác mở cửa cho anh vào. Chỉ khi trời mưa
nó mới bậm gan leo lên gác. Nó rất sợ đi qua chỗ cầu thang. Ở đó có ngọn đèn.
Trên vách tường thường đầy mấy con bồ hong. Thằn lằn lúc nào cũng có… Anh dẹp
ngọn đèn đó hai lần. Linh vừa mướn thợ mắc lại vừa chửi “đồ phá hoại”
Ngôi nhà của anh. Những người thân của anh. Sao mỗi lần đứng
trước họ anh luôn thấy lạc lõng. Lại thấy nhẹ lòng trước một người lạ hoắc. Anh
mỉm cười với ông.
- Dạ, không sao đâu. Tôi không thấy lạnh.
- Nhưng cũng không ngủ ngoài này được. Ban đêm mấy ông trên
cây rớt xuống... Vô nhà tôi ngủ.
- Ông nào?
- Ông dài ...
Lời ông nói về nguy cơ rắn rết lại như nói chuyện cái lá,
nhánh cây. Anh theo ông vào nhà. Anh theo ông chớ không phải anh đang chạy trốn
một nỗi sợ nào khác.
- Cậu lên đây làm gì? Vồ Cấm không phải là chỗ dễ chơi. Có
nhiều thứ cậu không biết…
- Vồ Cấm? Hèn chi nhà cửa vắng vẻ.
Ở đây không có nước nên không ai tới ở.
Vào tới nhà, ông già chỉ chỗ cho anh ngồi rồi quay lại chất
măng vào giỏ. Hai giỏ bàng lớn đầy măng. Không có nước mà măng tốt quá.
Ngoài trời chỉ tiếng gió và lá. Lá vỗ vào lá. Anh chợt buộc
miệng.
- Ở đây vắng quá.
- Giờ đỡ lắm rồi, hồi kháng chiến ngay cả những ông cách mạng
gan góc cũng ngại lên vồ Cấm hoạt động.
- Sao vậy chú. Họ sợ gì?
- Thời Mỹ, máy bay oanh tạc trên đỉnh hằng ngày. Chụp
hình rành rạnh từng hóc đá. Nhưng không chụp hình được vồ Cấm. Pháo cũng chưa từng
nổ trên vồ. Dù xung quanh đã bị oanh tạc tơi tả. Người ta sợ vì người ta không
biết ở đây có gì.
Anh nhớ hồi trước giải phóng có lần ba có dắt anh lên Tịnh
Biên chơi. Chỗ anh ghé là đội pháo binh. Pháo trưởng là một người xứ khác chuyển
tới. Mấy người lính khoe chiến tích của pháo trưởng.
- Số một, chấm tọa độ trăm phát như một.
- Nhưng đảm bảo không bắn tới vồ Cấm.
- Huốt luôn.
Tại anh không biết. Không phải là không tới mà pháo không nổ.
Pháo trưởng nhìn lướt qua mọi người. Môi anh ta bậm bậm, hai
mép trì xuống.
Anh tới bên khẩu pháo một trăm lẻ năm ly, nhìn sơ đồ, ngẫm
ngợi tính toán... Gương mặt pháo trưởng tự tin tươi tắn. Tướng mạo thật sáng sủa.
Người này giỏi toán là phải. Mọi người đều nhìn anh ta chờ đợi. Mắt anh ta vẫn
cứ sáng, chớp nhẹ nhàng thư thái. Mâm nhậu dường như nghe được tiếng tim của của
mỗi người. Anh ta sau một thoáng nhíu mày kêu lính pháo kéo thêm một trái nữa.
Phía vồ Cấm như đang chìm trong một giấc ngủ hàng trăm
ngàn năm. Tiếng thở của mọi người cũng nén lại. Người chủ xị rót rượu vào ly
nhưng tai cứ nhóng nghe. Rượu tràn ra mâm, chảy tới chân mới giật mình. Trưởng
pháo nhíu mày một lúc. Anh ta bậm môi hất hàm với người lính bên khẩu pháo. Dội
lại là những ánh mắt lo lắng. Cái thinh lặng trùm xuống. Rồi tiếng xì xầm lớn dần.
Đã nói mà không tin. Nhiều người bắn lắm rồi. Chỗ đó là vồ Chư Thần mà. Tên
pháo trưởng ngồi xuống mâm giựt li rượu.
- Uống đi!
Nhưng chưa ai uống anh ta đã ực một lúc mấy ly,
mặt thờ thẫn.
- Kỳ vậy ta.
Tam đang ở vồ Cấm. Nằm im nghe. Bốn trái pháo hôm đó có rớt
trúng đây không. Âm thanh xung quanh cũng không có gì lạ trừ tiếng lá lao xao.
Anh chợt thấy lòng vừa nhẹ nhỏm vừa hoang mang. Tự nhiên muốn được ở lại...
Nhưng sự thích thú này qua mau khi anh nghĩ về bé Phúc. Anh
không biết đêm nay có con thằn lằn nào chui vô mùng con. Có lần nó leo lên gác
chờ mở cửa cho anh về, thấy mấy con thằn lằn nằm rình bên ngọn đèn cầu thang,
nó đã không dám bước xuống, cũng không dám kêu nội hay cô. Chừng đi chơi về,
anh thấy nó ngồi khóc một mình, tiếng khóc ri rỉ, giọt nước mắt mỏng như sợi chỉ
lơ thơ thả xuống. Con gái anh lặng lẽ như một sợi nắng cuối chiều.
Có anh bé Phúc được đi chơi. Anh dắt con tắm sông, thả
diều, tới cửa hàng điện tử để xem đèn chớp. Anh nghĩ con rất thích. Cũng giống
như hồi ba còn sống, hay dắt anh đi chơi. Ba lại qua đời sớm. Má anh thì nói
chơi là hư. Mấy lúc bé Phúc muốn ngồi chơi khuya khuya, khi về má anh thường rầy.
“Mày dắt con nhỏ đi đêm đi hôm nó bệnh rồi sao, tập cái gì tốt không tập. Theo
mày là hư luôn.” Linh nói thêm. “Chẳng thấy làm cái gì coi cho được”. Những lần
đầu anh cười nhưng vẫn dắt con đi chơi. Những lần sau bà nội đẩy bé Phúc vô
phòng đóng cửa lại. Mỗi lần muốn dắt con đi chơi anh phải canh lúc bà đã
ngủ. Nếu không có anh, bé Phúc chỉ ngồi một góc học bài. Với nội và cô nó chỉ
nói được duy nhất một chữ “Dạ”.
Già Lâm nấu một nồi đậu xanh với đường, múc hai chén mời anh
một chén. Ăn cho mát.
Tiếng chó sủa xa xa rồi gần, rồi lan thành một tràng rộ.
Giống như có người đang rình rập thập thò theo đường suối. Anh bước ra ngoài.
Già Lâm kéo tay anh lại biểu ngồi im. Già rón rén nhìn ra hướng cửa. Rồi già bước
hẳn ra ngoài đi một vòng. Khi trở vô ông nói.
- Chó sủa trăng hay sủa ma gì đó. Tưởng đâu ổng lại về.
- Ông dài hả?
- Không, ông hổ. Một lần nghe chó sủa nhóng ra tôi gặp ổng.
Anh nhìn ra cửa để thấy được cái nơi ông hổ từng về.
- Bây giờ cũng còn ổng sao?
- Còn. Nhưng ít ai thấy. Chỉ những người có duyên. Ngày xưa
thì nhiều lắm mỗi lần động núi tiếng gầm rợn óc.
Động núi? Núi Cấm có động núi sao. Giống động đất, rung chuyển,
cát đá rơi xuống. À, giống như tảng đá đè chiếc xe vừa rồi.
- Hồi xưa người ít dám lên núi Cấm. Đạo Bửu Sơn Kỳ Hương thầy
cấm không cho lên sống trên núi. Nên núi này gọi núi ông Cấm. Ai trụ được cũng
là dân tứ cô vô thân. Vậy mà không thoát được cảnh khổ. Tây thường vô núi bắt
phu bắt lính. Mỗi lần Tây lên núi phụ nữ thì bị hãm hiếp, đàn ông con trai thì
bị trói đưa đi. Dân núi sợ lắm. Rồi có một đêm nọ cọp rống sáng đêm, rền
hết mấy vồ. Cọp bên vồ Cấm rống trước rồi lan sang bên Bồ Hong, vồ Thiên Tuế.
Lúc đầu dân núi nghĩ chắc là động đực động cái mấy ổng gọi nhau. Đêm kiểu như vậy
người ta gọi là động núi. Những đêm động núi không ai dám ra khỏi nhà. Hễ đêm
nào động núi là sáng ra Tây bố. Một linh tính kỳ lạ của núi Ông.
- Từ sau này còn động núi không?
- Không hiểu sao không thấy săn bắn cũng không thấy mấy ông
chết, mà giờ đây không nghe tiếng gầm.
- Có khi mấy ổng lẩn trốn trong hang.
- Không biết? Ít cọp nhưng hình như rắn nhiều hơn. Rắn
không lớn mà nhiều.
*
Rắn nhiều hơn.
Anh càng bước càng nhớ những gì già Lâm kể. Đầu anh lặp lại
câu nói về rắn. Đối với anh rắn núi thì con nào cũng độc địa .
“Con sẽ có chồng ở đây”. Câu nói chợt vọng lại như có
ai vừa gào thét xuyên qua những tầng cây quanh núi. Anh quay về khu tập thể dắt
chiếc xe máy của Phúc rồ ga chạy lên đường. Dựng xe bên lề anh bước vào nhà bếp.
Phúc đang chuẩn bị cơm chiều.
- Con đi theo ba.
- Mình đi đâu ba?
- Đi thăm một người bạn của ba.
Anh chở Phúc lên tới đỉnh, vòng qua bờ hồ chạy về hướng chùa
Phật Nhỏ. Từ ngã ba gần chùa anh cho xe về hướng vồ Cấm. Anh đã không thuyết phục
mình được nữa. Con anh muốn ở lại đó chung thân cùng núi. Có thật là vì tình
yêu. Hay nó cảm thấy sợ chốn xô bồ ngoài kia. Chốn này thật đáng để lánh đời.
Nhưng con gái anh mới đôi mươi thôi mà.
- Con cưới thật sao. Cưới là ở cả đời nghe con. Đường lên xuống…
- Ba đừng lo. Con biết tự lực mà. Ở đây còn nhiều thầy cô dạy
xa nhà chớ không phải riêng mình con.
Phúc nói bằng giọng mạnh dạn. Như một con chim nhỏ được tung
cánh trên bầu trời tự do. Tiếng nó réo rắc. Nhưng mà tiếng mỏng quá so với bầu
trời mênh mông, so với xóm núi quạnh quẽ.
Già Lâm đón anh và Phúc bằng món mớ tép đã mua từ hôm trước.
Anh nói tép xào su su ngon. Gìa nói ở núi như già và bé Phúc, món su su hay
măng tre ngán lắm rồi. Ông xào tép với nắm giá hẹ.
Phúc ăn nhỏ nhẻ. Nó chịu ăn cơm chỗ lạ như vầy làm anh thấy
dễ chịu. Hồi trước chở nó đi đâu gặp bữa đều không tài nào thuyết phục được nó
ăn cơm. Anh không ăn được nhiều.
- Chú nói núi Ông nhiều rắn, chú có thấy rắn bao giờ chưa, rắn
hổ mây đó, loại bằng khạp da bò.
- Cỡ cái khạp thì không thấy. Ba tôi hồi đó cất một
cái nhà nhỏ ở triền núi bên kia. Ở đó cũng như ở đây, nước nôi hiếm lắm, không
nuôi nấng con gì được hết. Chỉ ăn su su là sống được. Hết su su thì tới mùa
măng mạnh tông. Người dân ở đây trồng mạnh tông làm ranh. Khai khẩn tới đâu cắm
tre tới đó. Như một quy ước. Hễ người đến sau đặt dao xuống dọn cây phát cỏ, thấy
có tre là biết đất có người. Phía núi bên điện Bồ Hong có người nuôi được cặp
heo. Nuôi cả năm mà hai con heo không chịu lớn, chỉ năm sáu ký. Ba tôi
đem mấy miếng sắt máy bay ông lượm được đổi cặp heo về làm thịt. Khi làm lòng
xong bắt lên bếp nồi cháo. Trong lúc chờ cho cháo nhừ mấy người đàn ông trong
xóm xúm lại nhậu lai rai với mớ lòng. Uống được ba bốn vòng chợt nghe tiếng
kêu thất thanh của con heo còn lại. Khi cả bàn nhậu chạy ra thì thấy một con rắn
dài đã nuốt được nửa con heo.
Năm người đàn ông lực lưỡng gậy gộc dao mác vừa đánh vừa thủ.
Nó ọc một cái con heo văng phịch trước mặt mọi người. Nó luồn theo khe núi bỏ
đi.
Mọi người đem con heo đã ngất ngư quăng vô chuồng rồi ra
ngoài trước nhậu tiếp. Có một cái gì đó thiếu thiếu. Lúc đầu nhậu có năm người,
giờ còn bốn người. Ào đi kiếm. Bên hè nhà có tiếng người đang ứ ứ kêu la mà
không thành tiếng. Khi mọi người tới nơi thì thấy người đàn ông hai tay đang ôm
cứng đầu rắn cố sức đưa nó lên cao. Mình thì đã bị con rắn quấn trọn. Con rắn
thường ngày mềm mại vậy. Khi nó quấn người thì mình nó cứng như cây… Mọi
người kéo khúc đuôi con rắn kê lên đá chặt đứt chót đuôi. Người xưa kể sức mạnh
gân cốt của loài trăn rắn tập trung ở phần đuôi. Vậy là con rắn lơi
vòng xiết. Cái đầu nó cũng được chặt ngang liền sau đó.
Rồi con rắn cũng được giải quyết. Khi tỉnh hồn tỉnh
vía người bị rắn quấn mới kể. Sau khi con rắn bỏ đi ông ra khe núi đi tè.
Thấy nó chui vào khe đé bị kẹt ngang bụng nằm im. Ông nghĩ con rắn đáng sợ
là hàm răng. Giờ chụp được đầu nắm cứng coi như nó hết cục cựa. Ông đã từng bắt
nhiều con trăn con rắn kiểu vậy. Không ngờ con rắn mạnh hơn ông tưởng. Trong
lúc nguy khốn nó rút mạnh thân mình thoát khỏi khe đá quấn cứng ông.
Lòng tham khiến con người mù quáng như vậy.
- Nhiều người vẫn thích ăn thịt rắn hả ông ba.
- Nó ngon và bổ dưỡng.
Ông ba kể tiếp.
- Ông chủ nhà cạnh gốc ngọc lan đường lên hồ cũng mê thịt rắn.
Hôm đó bên Cây Quế có đập được một con. Ông xin về một khúc. Ông đang hầm
khúc rắn thì có một con rắn rất lớn bò trên bàn thờ. Nó bò tới đâu lư hương, ly
nước cúng, bình trà rớt xuống nền xi măng bể nát. Ông hoảng quá bỏ chạy ra
ngoài đường. Người trong xóm túa lại coi. Ai cũng run. Họ khấn vái. Cho tới khi
con rắn bò đi. Khúc rắn trong nồi được bưng đổ bỏ tuốt dưới triền núi.
Người ta nói rắn muốn báo thù giùm bạn nó. Vài hôm sau mọi người lập miếu thờ
chỗ gốc cây ngọc lan.
- Đáng lý ra nó phải trả thù người giết, sao nó lại dọa người
ăn.
- Cái này phải hỏi nó. Hôm đó chỉ thấy nó làm dữ lắm, mấy
ông xe ôm thường ngày bậm trợn thấy nó đã không dám nhúc nhích. Không giỏi săn
rắn thì phải sợ thôi. Có người săn giỏi nhưng gặp nó hung quá cũng ngán.
- Người ta nói núi Cấm rắn nhiều do mấy ông Việt cộng thả
lên hả ông Ba?
- Việt cộng sống trên núi Cấm. Thả rắn lên đặng bỏ núi
hay sao. Đồn kiểu đó vô lý.
- Mà đúng là con thấy rắn nhiều lắm. Hôm đó con với nhỏ bạn
đi họp dưới núi. Chạy từ đỉnh núi xuống, xe nó cán ba con rắn. Trên đường đi nó
bị bể bánh xe ba lần. May mà không có chuyện gì. Người ta nói cán rắn xui.
- Cán con gì thì cũng là xui. Không xui mình cũng xui nó. Lạ
một điều hồi xưa không có đường xá. Thanh niên muốn đi chơi đêm lần theo suối
mà đi. Đường xá tối mịt, gan cỡ nào cũng phải sợ, phải ca hát đặng quên sợ. Vậy
mà có khi nào đạp phải mấy ông dài đâu. Còn bây giờ thì xe dập dìu, nó băng
ngang mặt xe như chơi.
- Chỗ của con ở hễ nghe tiếng sạt nhẹ trên mái nhà là
biết nó. Lúc đầu sợ lắm, nhưng sau phải thỏa thuận nhường mái nhà cho nó. Đêm
vô mùng con phải bật đèn, rọi kỹ từng ngóc ngách, giũ kỹ từng cái gối cái mền…
Tam để chén cơm xuống nhìn con. Trước mắt anh là hình ảnh
con gái mỏng manh với bầy rắn. Cách đây không lâu Phúc nói có một con rắn chui
vô mùng một em học sinh. Thằng bé đã chết dù được thầy trị rắn giỏi cứu kịp. Nhớ
tới đó mặt anh sa sầm. Chở con lên đây nghe ông ba kể chuyện rắn cốt là hù cho
nó sợ. Ai dè…
- Sáng ba chở con về. Rắn bị động ổ rồi. Nó chui tận trong
mùng…
- Con thấy mà ba. Rủi ro thôi mà. Đã nói rủi ro thì mình
tránh sao cho khỏi.
- Sao ba nhớ con hồi đó con thằn lằn con cũng sợ.
- Hồi đó con sợ tất cả... Nhà mình không có rắn. Nhưng đêm
ngủ con thấy rắn bò đầy mùng, bò lên người. Vì sao con nhút nhát như vậy, yếu ớt
như vậy? Ba biết mà - Phúc nói tới đó rồi nhìn thẳng vào anh. Nó cười thật nhẹ
như động viên anh- Mười mấy năm chịu đựng, con thấy… đủ rồi. Ba cũng thấy
vậy mà.
Tam hít một hơi dài nhìn xuống triền núi. Nơi đó nhấp nhô những
tầng cây. Anh tự hỏi cây ở đây sống bằng gì? Nước quá ít, đất quá ít. Vậy mà nó
vẫn sống, mọc tầng tầng lớp lớp.
*
Sáng ra anh xuống núi sớm. Sương vẫn còn dầy. Phúc đứng tiễn
anh chỗ đầu dốc. Anh đi một đoạn nhìn lại con. Nó đang nói chuyện với một cô
giáo ra đón chợ. Anh đứng lại đợi cô giáo đi khỏi rồi nói với Phúc.
- Chuyện rắn ông ba kể hồi chiều qua là giả thôi. Mấy ông
kháng chiến hồi xưa đem rắn hù cho mọi người đừng lên núi Cấm đặng mấy ổng dễ
hoạt động, con đừng tin rồi sợ nghe.
Phúc phì cười.
- Con biết mà ba.
Tam bước dồn xuống núi, đi lại con đường hôm qua, con đường
có thể gặp rắn bất cứ lúc nào. Từng bước anh dựng ngược nhưng nhanh nhẹn, người
như đang bay. Những tảng đá to đã bay khỏi ý nghĩ. Anh đang nhớ hình ảnh bé
Phúc dám kể chuyện rắn nhẹ như kể chuyện học trò quậy. Rắn có thể bò ngang đường…
Cũng dễ hiểu thôi. Mèo, chó, hay bất cứ động vật nào cũng đều có thể bò ngang
đường. Chúng cũng cần đi kiếm ăn, đi thăm bạn bè con cái của chúng mà.
VÕ DIỆU THANH (tác giả giữ bản quyền)
_____________________________________
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét