Mùa Vu lan năm Canh dần 2010, tự nhiên tôi nhận
được nhiều email của thân hữu gởi đến - có ngày nhận hai ba cái - kèm theo
truyện ngắn “Một ngày lễ Vu lan sầu thảm” của Tịnh Thuỷ, viết về sự tàn ác và
hèn hạ của vua Gia Long trong việc hành hình vợ chồng Trần Quang Diệu & Bùi
Thị Xuân - hai dũng tướng của Tây Sơn - và gia đình (mẹ già và con gái). Nội
dung của các điện thư hoặc có ý hỏi tôi sự thật có đúng như vậy không, hoặc tỏ
ra đồng ý với tác giả, chê trách vua Gia Long tàn ác. Bài viết này xin xem như
một câu trả lời, sự thật lịch sử là một kinh nghiệm chung ở đời…
Đôi nét lịch sử
Sau 25 năm chiến đấu kiên trì và gian khổ, ngày mồng 3 tháng 5 năm
Tân Dậu (13/6/1801) Nguyễn Vương (vua Gia Long) tái chiếm kinh đô cũ Phú Xuân,
đuổi vua tôi Cảnh Thịnh chạy dài ra Bắc. Một năm sau, ngày mồng 2 tháng 5 năm
Nhâm Tuất (1/6/1802), tuy chưa chính thức lên ngôi hoàng đế (1) nhưng theo lời
đề nghị của bầy tôi, vua ban hành niên hiệu Gia Long, mở ra một triều đại
mới của nhà Nguyễn. Vào đầu thế kỷ XX, vua Khải Định đã chọn ngày này (mồng 2
tháng Năm âm lịch) làm ngày quốc khánh của nước Đại Nam, đặt tên là ngày Hưng
quốc khánh niệm. Những ai ở lứa tuổi trên 70 ở Trung kỳ, từng cắp sách đến
trường có thể còn nhớ đôi chút về ngày này, nhất là ở Huế. Đó là ngày
mừng đất nước thống nhất. Niên hiệu Gia Long bao hàm trong ý nghĩa đó - vua
muốn nói ông là người đã đi từ Gia Định thành tới Thăng Long thành để thống
nhất đất nước.
Ngay sau khi chiếm lại Phú Xuân và trong khi vua Cảnh Thịnh
của Tây Sơn đang còn làm chủ ở miền Bắc thì Nguyễn Vương đã cho “Phá hủy
mộ giặc Tây Sơn Nguyễn Văn Huệ, bổ săng, phơi thây, bêu đầu ở chợ” (Thực lục
I, tr.473).
Sau khi chiếm được Bắc hà, bắt được trọn gói vua tôi, anh em vua
Cảnh Thịnh, hoàn thành cuộc thống nhất đất nước từ Nam chí Bắc, vua Gia Long
khải hoàn về kinh. Ngày giáp tuất tháng 11 năm Gia Long thứ 1 (7 tháng 11 Nhâm
Tuất, 1/12/1802) vua đem tù binh ra làm lễ hiến phù ở Thái Miếu. Hiến phù là lễ
trình diện tù binh trước bàn thờ tổ tiên, và Thái Miếu là nơi thờ 9 đời chúa
Nguyễn. Sau lễ, “sai Nguyễn Văn Khiêm là Đô
thống chế dinh Túc trực, Nguyễn Đăng Hựu là Tham tri Hình bộ áp dẫn Nguyễn
Quang Toản [vua Cảnh Thịnh] và em là Quang Duy, Quang Thiệu, Quang Bàn ra ngoài
cửa thành, xử án lăng trì, cho 5 voi xé xác, đem hài cốt của Nguyễn Văn Nhạc và
Nguyễn Văn Huệ giã nát rồi vất đi, còn xương đầu lâu của Nhạc, Huệ, Toản và mộc
chủ [bài vị] của vợ chồng Huệ thì đều giam ở Nhà đồ Ngoại [Ngoại Đồ Gia, cơ
quan chế tạo của triều đình, sau gọi là Võ Khố] (năm Minh Mệnh thứ 2 đổi giam
vào ngục thất cấm cố mãi mãi). Còn đồ đảng là bọn Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng
đều xử trị hết phép, bêu đầu cho mọi người biết. Xuống chiếu bố cáo trong ngoài”.
(Thực lục I, tr.531)
Trong chiếu bố cáo cho toàn dân được rõ về lễ hiến phù ngày 7 háng
11 Nhâm tuất, có câu mở đầu: “Trẫm nghe, vì chín đời mà trả thù là nghĩa lớn
kinh Xuân Thu…” và kết thúc bằng câu “Nhạc Huệ trời đã giết rồi, cũng đem phanh
xác tan xương, để trả thù cho Miếu Xã, rửa hận cho thần nhân”. (Thực lục
I, tr.532,533)
Theo tài liệu của Bissachère, trước khi nhận lãnh cái chết thảm
khốc, anh em vua Cảnh Thịnh còn bị bắt phải chứng kiến cảnh lính tráng tiểu
tiện vào sọt đựng hài cốt của cha (Nguyễn Huệ) và bác (Nguyện Nhạc) (theo hồi
ký của Bissachère) trước khi hài cốt bị đem “giã nát rồi vất đi”.
Phẩm bình của lịch sử
Tại miền Nam trước 1975, có hai bộ thông sử tiếng Việt thông dụng
là Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim và Việt Sử Toàn Thư của Phạm Văn Sơn.
Viết về vua Gia Long, cả hai bộ sử đều giống nhau ở một điểm: có phê phán sự
hẹp lượng của vua Gia Long qua việc giết hại công thần (vụ án Nguyễn Văn Thành
và vụ án Đặng Trần Thường), có kể rõ việc hành hình trả thù Tây Sơn nhưng hoàn
toàn không bình luận, phê phán gì đến sự “quá tay” trong việc này. Tại sao?
Hoa Bằng, tác giả Quang Trung, Anh hùng dân tộc (Nxb Bốn Phương,
Saigon, 1953) khi kết luận thiên biên khảo đầu tiên bằng tiếng Việt về đề tài
này đã ngậm ngùi viết: “Vậy mà Nã [Phá Luân, Napoléon I] được gởi nắm xương
trong đền Invalides để cho người sau hoài niệm, viếng thăm ; còn Quang
Trung: mả phải đào, xương phải tán, dòng dõi bị chu di, sự nghiệp liệt liệt
oanh oanh gói tròn trong một chữ Ngụy”
Nhà viết sử Trần Gia Phụng trong Nhà Tây Sơn (Nxb Non Nước,
Toronto, 2005) cũng đã có lời bình phẩm nhẹ nhàng nhưng nghiêm khắc:
“Cuộc trả thù được vua Gia Long xem là ‘nghĩa lớn Kinh Xuân Thu’
nhưng hành hạ di cốt địch thủ trước mắt con cái họ trái hẳn với đạo lý cổ
truyền của dân tộc”. (tr.240)
Phê bình mạnh tay, mạnh mẽ hơn có Quách Giao:
“Nhà Nguyễn đối với nhà Tây Sơn vô cùng khắc nghiệt. Quật mả Vua
Thái Ðức, Vua Quang Trung, chém giết dòng họ, tướng tá nhà Tây Sơn đến thế,
Nguyễn Phúc Ánh chưa cho là đủ, còn truyền đào mồ mả của cha ông hai nhà anh
hùng áo vải và của những người đã theo nhà Tây Sơn và đã chết trước khi non
sông đổi chủ.
Còn đối với Nhà Tây Sơn thì Nguyễn Phúc Ánh chém tất cả dòng họ,
từ Vua Bửu Hưng [Cảnh Thịnh], cho tới một em bé mới sanh mà đã lọt vào ngục
thất. Lại truyền đào mả Vua Thái Ðức và Vua Quang Trung, nghiền xương đổ xuống
bể. Còn sọ thì đem xiềng nơi ngục thất trong Hoàng Cung để làm lọ đi tiểu.
Ðể nhổ cỏ cho sạch gốc, Nguyễn Phúc Ánh sức mọi nơi truy tầm những
bà con gần xa của họ Nguyễn Tây Sơn, và những Tướng Tá của Tây Sơn còn trốn
tránh nơi sơn dã.
Hai người con Vua Thái Ðức là Văn Ðức, Văn Lương và cháu nội, con
Nguyễn Bảo, là Văn Ðẩu, nương náu nơi Mộ Ðiểu, Vùng An Khê. Vua tôi Nhà Nguyễn
biết nhưng sợ người Thượng, không dám đến bắt. Mãi đến năm Minh Mạng thứ 12
(1832) thấy tình thế đã yên, ba chú cháu mới đem nhau về thăm quê cũ ở Kiên Mỹ.
Bọn bất lương đi mật báo. Quân Nhà Nguyễn đến vây bắt giải về Phú Xuân giết
chết.
… Ngót 150 năm, Nhà Nguyễn cố làm cho người người quên Nhà Tây
Sơn. Những người yêu nước vẫn luôn nhớ đến Nhà Tây Sơn, ngọn bút yêu nước vẫn
chép đi chép lại, vẫn tìm tòi trong nơi khuất tịch những tài liệu còn dấu cất,
để viết về Nhà Tây Sơn.
Và tiếng Anh hùng Áo Vải, Anh Hùng Dân Tộc mãi còn vang, khi nhẹ
nhàng, khi mạnh mẽ, trên đất nước Việt Nam, từ Nam chí Bắc”.
Còn Nhà Nguyễn đã làm được gì?
Có người bảo rằng đã thống nhất Bắc Nam. Ðó là quên rằng chính Nhà
Tây Sơn đã thống nhất Bắc Nam, rồi Nguyễn Phúc Ánh đánh chiếm trên tay Ðông
Ðịnh Vương và Cảnh Thịnh. Sau bao phen bể nổi dâu chìm Nhà Nguyễn còn để lại
tiếng Rước voi, cõng rắn.
Trăm năm bia đá thời mòn
Nghìn năm bia miệng mãi còn trơ trơ.
Trong văn hóa phương Tây, đánh nhau là đánh nhau nhưng không có
chuyện trả thù kẻ chiến bại một cách tàn nhẫn, nhất là đối với người đã chết,
Do đó, khi bắt gặp hành động “dã man” này của vua Gia Long, Stanley Karnow, tác
giả tiếng tăm bộ sử VietNam, A History (Penguin Book, 1984) đã viết:
“Ông ta tỏ ra chẳng khoan dung chút nào đối với kẻ thù đã chiến
bại, dù đã chết hay còn sống. Binh sĩ của ông đã quật xương cốt của một
cặp vợ chồng cầm đầu Tây Sơn đã chết [Nguyễn Huệ], tiểu tiện vào xương cốt đó
trước sự chứng kiến của con cái họ và những người này sau đó tay chân bị trói
vào 4 con voi và xé nát.” (p.65) (He showed no mercy to his beaten adversaries,
dead or alive. His soldiers exhumed the bones of a deceased Tayson leader and
his wife and urinated on them before the eyes of their son, whose limbs were
then bound to four elephants and ripped apart.)
Nếu Nhà Tây Sơn không có Quang Trung Nguyễn Huệ với chiến thắng
quân Thanh và quân Xiêm vang dội trong lịch sử thì hành động “vì 9 đời mà trả
thù” của vua Gia Long chưa chắc đã bị búa rìu dư luận nhiều như đã xảy ra.
Ngoài việc ghi chép khá rõ ràng của Quốc Sử Quán Nhà Nguyễn thì hồi ký sống
động của giáo sĩ De la Bissachère về việc hành hình trả thù của vua Gia Long
đối với anh em và vua tôi Cảnh Thịnh (2), đã gây tác động tâm lý không nhỏ
trong giới sử học Đông Tây (Thực ra ông này không chứng kiến cuộc hành hình mà
chỉ nghe ai đó kể lại). Thử đi vào mạng lưới toàn cầu, gõ mấy từ khóa như Gia
Long, Tây Sơn, Nguyễn Huệ, thì tha hổ đọc công luận phẩm bình, đa số đều chê
Gia Long về việc này. Điều này cũng dễ hiễu thôi vì hào quang chiến thắng quân
Xiêm và quân Thanh của vua Quang Trung rực rỡ quá, đã che mất sự thật thê thảm
ở bên trong. Thêm vào đó, với mấy chục năm lịch sử được viết dưới nhãn quan xã
hội chủ nghĩa, triều Nguyễn do Gia Long khai sáng, đã bị miệt thị thậm tệ, đã
ảnh hưởng không ít trên sự nhận thức của người đọc, nhất là giới trẻ. Mặc dầu
ngày nay gió đã đổi chiều, đã bắt đầu có sự chuyển biến trong nhận thức về sự
nghiệp của Nhà Nguyễn (3) nhưng không thiếu chi người vẫn tư duy trong nếp cũ.
Câu hỏi đặt ra
Các sách sử Việt Nam viết về hành vi “tàn ác” trả thù Tây Sơn của
vua Gia Long đều lấy tài liệu từ các bộ chánh sử của Nhà Nguyễn (Đại Nam Thục
lục đệ nhất kỷ, Đại Nam Liệt Truyện ), trước khi biết đến các chi tiết khác do
nguồn sử liệu Tây phương cung cấp. Sử thần Nhà Nguyễn trong Quốc Sử Quán đã
không giấu diếm gì cả, viết trắng chuyện này ra cho hậu thế cùng biết, người
sau chỉ lặp lại, chỉ thêm lời bình phẩm nặng nể mà không có bớt.
Riêng người viết, trong niềm ngưỡng mộ chiến thắng oanh liệt hào
hùng của vua Quang Trung trước quân Xiêm và quân Thanh xâm lăng, ban đầu thì
cũng đồng ý với những bình phẩm chê trách hành động của vua Gia Long đối với
Tây Sơn là thái quá, tàn nhẫn, nhưng sau đó, khi được biết những nguồn tin
khác, không khỏi đắn đo tự hỏi và tìm lời giải đáp.
Vua Gia Long vốn không phải là con người hiếu sát (4). Ngay cả
việc đối với họ Trịnh, hai bên đánh nhau ròng rã 45 năm trời, vậy mà khi đã lấy
được nước (1802), vẫn đối xử tốt với con cháu họ Trịnh chứ đâu đến cạn tàu ráo
máng như với Tây Sơn?
Sau khi làm chủ Bắc hà, vua “Sai chọn người dòng dõi họ Trịnh để
giữ việc thờ cúng họ Trịnh. Trước là khi đại giá Bắc phạt, người họ Trịnh ai ai
cũng sợ bị giết. Vua thấu rõ tâm tình, xuống chiếu dụ rằng: Tiên đế ta với họ
Trịnh vốn là nghĩa thông gia. Trung gian Nam Bắc chia đôi, dần nên ngăn cách,
đó là việc đã qua của người trước, không nên nói nữa. Ngày nay, trong ngoài một
nhà, nghĩ lại mối tình thích thuộc bao đời, thương người còn sống, nhớ người đã
mất, nên lấy tình hậu mà đối xử. Vậy nên cùng báo cho nhau, họp chọn lấy một
người trưởng họ, giữ việc thờ cúng để giữ tình nghĩa đời đời” (Thực lục
I, tr.508). Vậy là Trịnh Tư được giao lo việc thờ cúng, họ Trịnh được cấp
500 mẫu ruộng để lấy huê lợi cúng tế hàng năm, 247 người họ Trịnh được xét tha
thuế dinh và miễn binh dao (đi lính và chịu sưu dịch).
Ai cũng biết La Sơn Phu tử Nguyễn Thiếp, được coi như một Gia Cát
Lượng của vua Quang Trung, một cố vấn tối cao, được vua quan trên dưới đều kính
nể (4 lần vua khẩn khoản mời ra giúp, cuối cùng nhận chức Viện trưởng Viện Sùng
Chính năm 1790, giúp vua chấn chỉnh việc giáo dục, văn hóa, giúp vua chọn đất
Nghệ An làm Phượng Hoàng trung đô…). Khi Nguyễn Vương tái chiếm Phú Xuân,
ông đang ở Huế giúp vua Cảnh Thịnh nhưng không chạy theo khi vua đào thoát (hay
chạy theo không kịp?) và dường như không bị bị bắt mà chỉ quản thúc tại gia, dù
phía Nguyễn Vương biết rõ lý lịch, sau đó Nguyễn Vương đã ra lệnh: “Thả xử sĩ ở
Nghệ An là Nguyễn Thiếp về. Thiếp là người xã Nguyệt Áo huyện La Sơn, đậu Hương
tiến đời Lê, làm quan huyện Thanh Chương, bỏ quan về nhà. Khi nhà Lê mất, theo
lời mời của Nguyễn Quang Toản mà ở lại Phú Xuân. Tới nay vào yết kiến, xin trở
về làng. Vua [Nguyễn Vương] dụ rằng: Khanh là người tuổi tác, đạo đức, rất được
người ta trông cậy. Sau khi trở về núi nên khéo léo đào tạo lấy nhiều học trò
để ra sức phò giúp thịnh triều, khỏi phụ tấm lòng rất mực mến lão kính hiền của
ta. Bèn sai quan quân đưa về” (Thực lục I, tr.445)
Lại năm 1803, phái đoàn do vua Cảnh Thịnh phái đi sứ Nhà Thanh
(gồm Lê Đức Thận, Nguyễn Đăng Sở và Vũ Duy Nghi) bị trả về nước, bị quan Bắc
thành bắt giải về Kinh, vua Gia Long tha hết cho về quê. Lại khi Bộ Hình tâu
xin vua định đoạt số phận của người vợ lẻ Nguyễn Nhạc cùng 2 người em họ tên
Đại và Vạn bị bắt thì vua nói: “Vợ lẻ Nhạc là một người đàn bà thôi. Bọn Đại
tuy là thân đảng của giặc Nhạc mà không dự binh quyền, nay Nhạc chết rồi, giết
đi thì có ích gì?” (Thực lục I, tr.544)
Những chứng dẫn nho nhỏ đó cho thấy vua Gia Long là con người phải
chăng, tùy theo người, theo trường hợp mà có quyết định tha hay phạt , chứ
không phải bạ đâu giết đó, thà giết lầm hơn bỏ sót. Vậy tại sao giết Tây Sơn
chưa đủ, phải hành hạ mới hả, kể cả nắm xương khô. Thù chi mà dữ vậy?
Sự thật là đây
Về chuyện vua Gia Long trả thù Tây Sơn, nhà viết sử Trần Gia Phụng
đã đi xa hơn các học giả đi trước khi lần đầu tiên ông phân tích chính xác
rằng:
“Không kể cá nhân ông bị quân đội Tây Sơn truy đuổi nhiều lần suýt
chết, vua Gia Long thâm thù nhà Tây Sơn vì ba việc chính: Thứ nhất, năm 1777
Định Vương Nguyễn Phúc Thuần [chú ruột vua Gia Long], Tân Chính Vương Nguyễn
Phúc Dương [em chú bác ruột] và Nguyễn Phúc Đồng [anh ruột] bị quân Tây Sơn bắt
giết ở Gia Định. Thứ nhì, hai người em [ruột] của Gia Long là Nguyễn Phúc Mân
và Nguyễn Phúc Thiển bị chết về tay quân Tây Sơn năm 1783. Thứ ba, vua Quang
Trung cho quật mộ của Nguyễn Phúc Côn (phụ thân của Gia Long), đem hài cốt đổ
xuống sông năm 1790.” (Việt Sử Đại Cương, Tập 2, tr.445)
Chừng đó nợ máu nghe đã nặng (5 người cật ruột), nhất là món nợ
thứ 3, nhẹ vật chất mà nặng tâm linh và đạo đức, ít người biết. Nhưng kể vậy
cũng chưa đủ. Khi đọc câu mở đầu của chiếu bố cáo lễ hiến phù: “Trẫm
nghe, vì chín đời mà trả thù là nghĩa lớn kinh Xuân Thu…” (Thực lục
I, tr.532) tôi không khỏi mỉm cười một mình với ý nghĩ: thiệt mấy ông đời
xưa văn chương lớn lối quá, cái chi cũng lôi điển tích với sách vở ra, tô vẻ
cho long trọng. Nhưng sau đó, khi đọc kỹ Thực lục mới biết mấy chữ vì 9 đời mà
trả thù mang một ý nghĩa rất thực, rất cụ thể, bên cạnh màu sắc điển tích văn
chương tô điểm.
Ngày 13/6/1801, Nguyễn Vương (vua Gia Long) tái chiếm kinh đô Phú
Xuân, nơi ông đã vội vã ra đi khi mới 13 tuổi (ta), và ròng rã 27 năm mơ ước
được trở về. Tuy đã làm chủ được Phú Xuân nhưng lực lượng hùng hậu của
Tây Sơn Cảnh Thịnh vẫn còn ở bên kia lũy Trường Dục (Quảng Bình), vậy mà đến
đầu tháng 8 năm đó đã lo sửa sang lăng mộ tổ tiên và cấp tốc hoàn tất ngay
trong tháng. Sao việc này lại làm gấp rút còn hơn cả công tác sửa sang thành
trì, xây đồn đắp luỹ để phòng chống Tây Sơn? Xin đọc kỹ đoạn ghi chép của
Thực lục sau đây, có thể thấy được lý do thúc đẩy:
“Tháng 9, ngày Ất hợi [ 9/8/1801], sửa lại sơn lăng.
Trước kia giặc Tây Sơn Nguyễn Văn Huệ tham bạo vô lễ, nghe nói chỗ
đất phía sau lăng Kim Ngọc (tức lăng Trường Mậu) [lăng của chúa Ninh Nguyễn
Phúc Thái] rất tốt, định đem hài cốt vợ táng ở đó. Hôm đào huyệt, bỗng có hai
con cọp ở bụi rậm nhảy ra, gầm thét vồ cắn, quân giặc sợ chạy. Huệ ghét, không
muốn chôn nữa. Sau Huệ đánh trận hay thua, người ta đều nói các lăng liệt thánh
[các chúa Nguyễn] khí tốt nghi ngút, nghiệp đế tất dấy. Huệ bực tức, sai đồ
đảng đào các lăng, mở lấy hài cốt quăng xuống vực. Lăng Hoàng Khảo ở Cư
Hóa [lăng Cơ Thánh của Nguyễn Phúc Côn, thân sinh vua Gia Long] Huệ cũng sai Đô
đốc Nguyễn Văn Ngũ đào vứt hài cốt xuống vực ở trước lăng. Nhà Ngũ ở xã Kim Long
bỗng phát hỏa. Ngũ trông thấy ngọn lửa chạy về. Người xã Cư Hóa là Nguyễn Ngọc
Huyên cùng với con là Ngọc Hồ, Ngọc Đoài ban đêm lặn xuống nước lấy vụng hài
cốt ấy đem giấu một nơi. Đến nay, Huyên đem việc tâu lên. Vua thương xót vô
cùng, thân đến xem chỗ ấy, thì vực đã bồi cát mấy chục trượng. Tức thì sai chọn
ngày lành làm lễ cáo và an táng lại. Các lăng đều theo nền cũ mà xây cao lên.
Ngày Kỷ hợi [1/11/1801], vua thân đến tế cáo, nghẹn ngào sa lệ, bầy tôi đều
khóc cả. Sai đổi xã Cư Hóa làm xã Cư Chính, cho dân miễn dao dịch làm hộ lăng.
Cho Huyên làm Cai đội (năm Minh Mệnh thứ 11[1830] phong An Ninh bá, lập đền thờ
ở núi Cư Chính) con là Ngọc Hồ, Ngọc Đoài tòng quân ở Bình Định cũng được gọi
về hậu thưởng cho.” (Thực lục I, tr.466)
Gạt ra ngoài những chi tiết hoa lá cành như hai con cọp trong bụi
rậm nhảy ra, đang đào mả thì nhà cháy, v.v… đoạn sử ngắn ngủi do Thực lục ghi
lại tiết lộ hai điều quan trọng mà ít người biết đến hoặc biết mà vì một lý do
nào đó đã lơ đi hoặc chỉ phớt nhẹ nói qua:
- Thứ nhất, Quang Trung Nguyễn Huệ đã đào hết lăng tẩm của 8 đời
chúa Nguyễn tại Thừa Thiên, lấy hài cốt ném xuống sông. Việc này cọng với việc
giết chết vị chúa thứ 9 là Định Vương Nguyễn Phúc Thuần tại Long Xuyên năm 1777
thì quả nhiên vua Gia Long tính sổ 9 đời không sai chậy chút nào. Vì vậy có thể
nói được rằng chữ 9 đời có một ý nghĩa rất cụ thể.
Đây là 8 đời chúa Nguyễn:
1. Chúa Tiên Nguyễn Hoàng (1558-1613);
2. Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên (1613-1635);
3. Chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan (1635-1648);
4. Chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần (1648-1687)
5. Chúa Ngãi Nguyễn Phúc Thái (1687-1691);
6. Chúa Minh Nguyễn Phúc Chu (1691-1725);
7. Chúa Ninh Nguyễn Phúc Thụ (1725-1738);
8. Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765);
Về ông tổ Nguyễn Kim, có lẽ vì không biết đích xác mộ phần nẳm ở
đâu trong cái bát ngát của núi Triệu Tường ở Thanh Hóa, nên vua Quang Trung
đành phải cho qua mà không tình sổ.
Tám đời chúa Nguyễn này không có hận thù gì với anh em Tây Sơn, đã
có công rất lớn đối với dân tộc và đất nước khi kế tục nhau mở nước về phương
Nam, đến tận Cà Mau, Châu Đốc, cống hiến cho tổ quốc non một nửa nước, trài dài
từ Phú Yên trở vào Nam, với đất đai trù phú, nguồn lợi dồi dào, rộng hơn
lãnh thổ nam tiến của các triều Lý, Trần, Hồ và Hậu Lê cọng lại. Không có sự
nghiệp này thì hậu thế ngày nay lấy chi để khoe với thế giới rằng “nước
ta hình cong như chữ S” với “rừng vàng biển bạc”?!
- Thứ hai: Phần mộ của ông Nguyễn Phúc Côn, thân sinh vua Gia Long
cũng bị quật lên và hài cốt ném xuống sông. Ông Nguyễn Phúc Côn là con thứ hai
của Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát, mất năm 1765, khi con là Nguyễn Phúc Ánh đang
còn bé. Khi vua Gia Long lên ngôi Hoàng đế (1806) mới truy tôn cha làm Hưng Tổ
Hiếu Khang Hoàng Đế, chứ cho đến khi chết dưới tay quyền thần Trương Phúc Loan,
ông chẳng làm vua làm chúa gì. Chỉ vì con ông là Nguyễn Phúc Ánh dám chống lại
Tây Sơn mà ông đã không được ngủ yên, lâm vào cảnh con làm cha chịu!
Nguyễn Phúc Tộc Thế Phả cho biết thêm một chi tiết khác:
“Theo truyền thuyết, khi Tây Sơn khai quật hài cốt đức Hưng Tổ ném
xuống sông thì một hôm Nguyễn Ngọc Huyên bỏ lưới bắt cá, sau ba lần đều thấy
cái sọ nằm trong lưới. Huyên cho là sọ của một vị nào anh linh nên kiếm nơi an
táng tử tế. Khi vua Gia Long lên ngôi, đi tìm lại hài cốt của thân phụ, nghe
người làng tường thuật, ngài cho đòi Ngọc Huyên bảo chỉ chỗ. Khi đào được sọ
lên, vua chích huyết ở tay mình cho giọt vào sọ, sọ liền hút những giọt huyết
này” (lối thử này cho biết mối liên hệ cốt nhục giữa hai người) (tr.193)
Thực lục có nói khi Nguyễn Ngọc Huyên chết thì được lập đền thờ và
phong làm An Ninh bá. Ở thượng lưu sông Hương có một ngôi miếu, tục gọi là miếu
Ông Chài, chính là miếu ông Huyên vậy.
Trong văn hóa Việt Nam, phận làm con cháu là phải lo gìn giữ mồ mả
tiên tổ cha ông. Do đó chúng ta thông cảm với vua Gia Long chỉ trong 2 tháng
sau khi tái chiếm Phú Xuân đã vội vã hoàn tất việc tu sửa lăng mộ bởi khi đã
biết tình trạng lăng mộ bị phá tanh banh thê thảm như thế thì không một ai có
thể chờ đợi được nữa.
Trong lịch sử Việt Nam, việc tranh giành quyền lực dẫn đến những
hành động giết hại nhau tàn nhẫn không phải là hiếm. Điển hình, để cướp ngôi
nhà Lý, Trần Thủ Độ không ngần ngại dồn Lý Huệ Tông vào chỗ chết, với ý đồ nhổ
cỏ tận gốc, mặc dù Huệ Tông đã biết thân phận, bỏ ngai vàng, vào tu ở chùa Chân
Giáo. Đã thế, Trần Thủ Độ còn bày mưu sập bẫy tôn thất Nhà Lý chôn sống trọn
gói (may mà Hoàng tử Lý Long Tường nhanh chân thoát qua tị nạn ở Cao Ly, trở
thành thuỷ tổ họ Lý của xứ Đại Hàn ngày nay). Nhưng có lẽ trong cuộc tranh chấp
quyền lực chưa có ai trong lịch sử phải trả cái giá 5 mạng người ruột thịt và 9
ngôi mộ cha ông tiên tổ tanh banh với xương cốt không biết đâu tìm như trường
hợp vua Gia Long trong khi đối đầu với Tây Sơn để phục hồi cơ nghiệp của ông
cha đã tốn công xây dựng.
Ở đời, có vay thì có trả. Nợ nào cũng có tính lãi suất, chỉ có
khác là nặng hay nhẹ, không hình thức này cũng hình thức khác. Nếu Quang Trung
Nguyễn Huệ không tạo nhân ác thì có thể đã không gặp quả ác. Hận thù luôn
luôn vẫy gọi thù hận là chuyện thường của thế gian, huống chi lại có yếu tố
tranh giành quyền lực trong đó, tham lam và sân hận hẳn phải bốc lên ngùn ngụt.
Phải chăng nên thử tự đặt mình vào địa vị của vua Gia Long để có
nhiều thông cảm và có lời phẩm bình phải chăng hơn.
Một vài cảm nghĩ
Là hậu thế, có lẽ không mấy ai vui khi biết sự thật của tấn thảm
kịch Nguyễn Quang Trung và Nguyễn Gia Long. Cả hai, đối với chúng ta, đều có
chỗ đáng tôn vinh lẫn chỗ bất cập. Riêng ngưởi viết, từ tấn thảm kịch lịch sử
này, học hỏi được một đôi điều, xin gọi là chia sẻ.
1/ Qua việc điện thư của bạn bè và thân hữu gởi đến tới tấp kèm
chuyện “Một ngày lễ Vu lan sầu thảm” của Tịnh Thuỷ, tôi nhận ra rằng té ra loại
“lịch sử tiểu thuyết” dễ đi vào lòng người hơn là chính sử khô khan. Đồng ý khi
tiểu thuyết hóa lịch sử thì tha hồ cho trí tưởng tượng vẽ vời nhưng cái căn bản
của nó xin đừng đổi trắng thay đen. Thực lục ghi rõ vụ hành hình vua tôi anh em
Cảnh Thịnh diễn ra ngày Giáp Tuất tháng 11 năm Gia Long thứ 1, tức ngày 7 tháng
11 Nhâm Tuất (1/12/1802). Làm chi có ngày Vu Lan trong đó? Có lẽ tác giả muốn
gây ấn tượng cho ngưởi đọc về sự tàn ác khó dung tha của vua Gia Long nên mới
lựa một ngày như thế. Tội nghiệp cho vua! Vua chỉ dự lễ hiến phù, không dự cuộc
hành hình, chỉ sai quan thi hành, nên cuộc đối thoại tay đôi giữa vua và bà Bùi
Thị Xuân cũng chỉ là cơ hội bày ra để mạt sát thoải mái. Tội nghiệp.
2/ Việc cải táng mộ ông Nguyễn Phúc Côn có thể hiểu được, vì tìm
được hài cốt và hài cốt này đã được vua Gia Long xác tín rằng đó là di cốt của
người đã sinh thành ra ông. Nhưng với 8 chúa thì sao? Sử nói Các lăng đều theo
nền cũ mà xây cao lên. Đồng ý là xây lên cao, làm cho to lớn đẹp đẽ hơn xưa,
nhưng hài cốt không tìm thấy thì chôn cái gì trong đó? Chẳng lẽ chỉ là một ngôi
mộ trống không? Một cái mả gió?
Trong một dịp về thăm Huế sau 7 năm “đi học làm người tốt”, tôi
được biết sau năm 1975, do đói quá, người ta đã làm bậy. Việc đào trộm mồ mả
lăng tẩm giới quyền quí đã xảy ra với ý đồ tìm vàng bạc châu báu tùy táng.
Người bạn kể cho nghe (tôi chưa có cơ hội kiểm chứng) khi cụ Vương Hồng Sển,
nhà sưu tập đồ cổ nổi tiếng của Miền Nam, biết được kẻ gian đã kiếm được
nữ trang trong lăng Hoàng Thái Hậu Từ Dũ (vợ vua Thiệu Trị, mẹ vua Tự Đức) và
đem bán thì cụ đã kêu trời. Dưới cái nhìn cơm áo của kẻ trộm, đó là vàng, tính
theo thời giá của chỉ và lượng. Dưới cái nhìn của cụ Vương, đó là đổ cổ vô giá
của quốc gia! Nhưng đó không phải là chi tiết tôi quan tâm, vì bảo vật quốc gia
người ta bán ra nước ngoài nhiều rồi. Chi tiết lý thú mà tôi nghe được đã giúp
tôi hiểu biết thêm và lý giải thắc mắc nêu trên. Chi tiết đó là, bọn kẻ trộm,
khi đào đến quan tài của một ông chúa nào đó đã không thấy hài cốt mà chỉ thấy
hình người ta bằng gỗ! Điều này xác nhận giả thiết mà tôi đã nghĩ trong đầu
nhưng không biết cách nào để kiểm chứng, ấy là tục chiêu hồn nạp táng.
Chiêu hồn nạp
táng là gì? Trong gia phả các họ rất chú trọng mục: Mộ táng ở đâu. Trong mục
này có một số trường hợp ghi chú: “Chiêu hồn nạp táng”. Đó là những ngôi mộ
không có tử thi, hài cốt, mộ người chết trận, chết đuối hay do thú dữ vồ… không
tìm được tử thi. Thân nhân làm hình nhân và làm lễ an táng theo như lễ an táng
thông thường.
Được nghe các cụ kể lại rằng: chất liệu làm hình nhân, có địa
phương dùng cây núc nác (còn gọi là sò đo thuyền, mộc hồ điệp, nam hoàng bá,
bạch ngọc nhi). Núc nác là loại gỗ mềm và xốp, dễ tạo hình, chôn dưới đất lâu
hoai, lại dễ kiếm vì mọc ở nhiều nơi. Có địa phương dùng bùn lấy ở giữa dòng
sông, có địa phương dùng mùn đào ở giữa ngã tư đường cái. Hình nhân được đẽo
gọt hoặc nhào nặn thô sơ, có đầu mình chân tay là được (vì đa số không phải là
nghệ nhân). Kích thước của hình nhân khoảng 30-40 cm chiều dài. Thi hài tượng
trưng đó cũng được khâm liệm, đưa vào áo quan làm bằng gỗ vàng tâm, kích thước
nhỏ bé, hoặc đưa vào tiểu sành. Trên hình nhân có phủ lên linh vị viết trên
giấy kim tuyến, nội dung giống như linh vị đặt ở bàn thờ. Trước khi làm lễ an
táng có mời thầy cúng làm bùa ấn phù phép để vong hồn nhập vào hình nhân.
Lễ an táng và các lễ các lễ khác cũng tiến hành như tang lễ thông
thường.
2/ Hình như có một nhà tư tưởng nào đó đã nói: “Làm thầy thuốc lầm
thì chết một người; làm thầy địa lý lầm thì giết một họ; làm chính trị lầm thì
giết một nước, làm làm văn hóa lầm giết cả một đời”. Dưới ảnh hưởng của môn
phong thủy Trung Hoa, người Việt từ vua cho chí dân đều tin rằng âm phần tổ
tiên có ảnh hưởng trực tiếp đến sinh mệnh và tương lai của con cháu. Bởi vậy ai
cũng mong muốn tìm cho được một huyệt mả tốt để được kết phát, để con cháu được
hưởng phước vinh hoa phú quí dài lâu. Bởi vậy, để tận diệt kẻ thù không gì bằng
triệt long mạch, phá huyệt mộ, đào mả cha ông nhà người ta lên. Làm thế thì
chắc chắn con cháu không thể nào ngóc đầu lên được, lấy gì mà chống trả. Quang
Trung Nguyễn Huệ, ngoài việc sử dụng binh lực đánh Nguyễn Vương chạy dài ra
biển, trốn qua đến Xiêm La hai lần, vẫn không quên sữ dụng chiêu thức này để hỗ
trợ. Và để cho chắc ăn, thà phá lầm hơn bỏ sót, đã không những quật mồ thân
sinh vua Gia Long là huyết thống trực hệ mà còn quật mồ cả 8 đời chúa Nguyễn xa
lắc. Thật là một sự tính toán chu đáo.
Tuy toan tính chu đáo như vậy nhưng Nhà Tây Sơn Nguyễn Huệ chỉ tồn
tại có 14 năm (1788-1802, 1788 là năm vua Quang Trung đăng quang trước khi ra
Bắc phá quân Thanh), trong khi Nguyễn Vương, mặc dầu bị đánh trúng tử huyệt
(theo quan niệm phong thủy) nhưng sau 25 năm bền bĩ chiến đấu nhọc nhằn, đã
thống nhất đất nước, phục hưng được cơ nghiệp tổ tiên, lập ra triều đại mới,
tồn tại 143 năm (1802-1945).
Vậy là thế nào? Chẳng lẽ phong thủy hoàn tòan là một thứ tin mê
tín dị đoan? Không, không thể vì vậy mà kết luận phong thủy một cách hồ đổ như
thế được. Cái nước Mỹ của khoa học kỹ thuật tiến bộ nhất thế giới này cũng đang
chạy theo Feng Shui (Phong thủy) của nền văn minh cổ Trung Hoa, có thua chi
Việt Nam xưa và nay đâu, có điều họ chú trọng đến dương cơ hơn âm phần. Như vậy
phải có một yếu tố gì khác làm cho độc chiêu do vua Quang Trung phát ra đã
không có hiệu quả. Tôi chợt nhớ đến chữ Đức trong câu ca dao:
Người trồng cây hạnh người chơi,
Ta trồng cây đức để đời về sau
Trong 8 đời chúa Nguyễn, không thấy ông nào làm điều gì thất đức.
Ông nào cũng lo làm cho dân giàu nước mạnh. Lịch sử cuộc nam tiến đi từ Phú Yên
đến Cà Mau - Châu Đốc chứng minh điều đó. Hậu thế đã được thừa hưởng biết bao
phúc lợi từ sự nghiệp nam tiến đó! Có 3 ông chúa mang danh hiệu khác người:
Chúa Sãi, chúa Hiền, chúa Ngãi. Nghe nôm na và thân tình biết mấy. Nếu cai trị
mà không được dân thương mến và biết ơn thì làm chi có những cách gọi kém
vương giả nhưng giàu tình cảm như thế?
Có đến 4 ông chúa, ngoài tên và vương hiệu, lại tự xưng là đạo
nhân, như Thiên Túng đạo nhân (chúa Minh Nguyễn Phúc Chu), Vân Tuyền đạo nhân
(chúa Ninh Nguyễn Phúc Thụ) hay Từ Tế đạo nhân (Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát),
Khánh Phủ đạo nhân (Định Vương Nguyễn Phúc Thuần). Đó cũng là một nét đặc biệt.
Nhiều ông chúa xây chùa (chúa Tiên lập chùa Thiên Mụ, Long Hưng, Bảo Châu, Kính
Thiên; chúa Hiền lập chùa Túy Vân) hay trùng tu chùa, đúc chuông, thỉnh
sư giảng Pháp (chúa Minh).
Có lẽ nhờ biết tu nhân tích đức mà đức năng thắng số, số bất
cập đức nên tai qua nạn khỏi, như câu tục ngữ mà ông bà xưa thường nói để
dạy khôn cho con cháu: Trời hại mới lo, người hại như phấn nhồi. Đó là nói nôm
na, cho có vẻ chính xác và minh triết hơn thì đấy chính là nhân quả nghiệp báo.
Theo thiển ý, có lẽ hiểu theo cách này mới giải thích được chỗ bất cập của
phong thuỷ.
VÕ HƯƠNG AN
________________
CHÚ THÍCH:
(1) Mãi đến mùa hạ năm 1806 (Bính dần) vua mới chánh thức làm lễ
lên ngôi Hoàng đế tại điện Thái Hoà.
(2) Có thể xem: La Relation sur le Tonkin et la Cochinchine, hồi
ký của Bissachère viết năm 1807 do Charles B. Maybon biên tập và xuất bản năm
1920
(3) Ngày 18 và 19/10/2008 tại Thanh Hóa có một cuộc hội thảo “Đánh
giá lại chúa Nguyễn và Vương triều Nguyễn” được phóng viên ghi nhận là “một hội
thảo lịch sử”, có lẽ vì phải chuẩn bị tài liệu đến 20 năm và tỉnh Thanh Hóa đã
tài trợ gần một tỉ đồng VN để tổ chức, có hai nhận xét quan trọng được ghi
nhận :
- Theo GS Văn Tạo, nguyên Viện trưởng Viện Sử học, cần có nhận
thức mới về nhà Nguyễn trong lịch sử dân tộc trên tinh thần “công minh lịch
sử”.
- Tổng kết hội thảo, GS Phan Huy Lê, Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử
Việt Nam khẳng định: “Cuộc hội thảo lần này đã nhận được sự hưởng ứng rộng rãi
không chỉ của giới khoa học mà còn của dư luận xã hội, chứng tỏ những nhận thức
trước đây về vai trò của chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn trong lịch sử dân
tộc theo hướng phê phán và phủ định đã không còn thỏa đáng nữa”
(4) Vua Gia Long có một thanh gươm mang tên Qui Y. Sử ghi rằng
thanh gươm này có tính ưa giết người (hiếu sát), Tối hôm nào gươm tự động thóat
ra khỏi vỏ thì hôm sau thế nào cũng có người phạm tội bị chém bằng thanh gươm
đó. Vua Gia Long ghét tính hiếu sát của gươm bèn đem qui y cửa Phật và đặt tên
là Qui Y (Quốc Triều Chánh Biên Toát Yếu)
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét