Thủa ấy, lưng đồi bên lớp học ngoài những gốc sim,
bụi mua là rừng cỏ may nhiều vô kể. Nhớ lại thời đó, mỗi khi tan học sớm tôi
lại cùng lũ bạn rủ nhau lên đồi hái sim, bứt hoa. Và cứ mỗi lần như thế đứa nào
đứa nấy lại bị hoa cỏ may găm đầy vào tay áo, vạt áo và đôi ống quần. Những quả
cỏ may nhỏ xíu xiên qua lớp vải, châm vào da thịt sao mà vừa đau vừa rặm. Tháng
năm dần trôi, bạn bè mỗi người một ngã, bây giờ chẳng biết có ai còn nhớ về cái
rừng cỏ may trên lưng đồi khi ấy. Với tôi, cho đến một ngày, khi hiểu được
những vần thơ: “Hồn anh như hoa cỏ may/ một chiều gió cả bám đầy áo em” (Nguyễn
Bính), “Khắp nẻo dâng đầy hoa cỏ may/ Áo em sơ ý cỏ găm đầy” (Xuân Quỳnh),
“Trăng vàng đêm ấy bờ đê/ Có người ngồi gỡ lời thề cỏ may” (Phạm Công Trứ),
“Một hôm em bỏ chuỗi cười/ Ra đi để lại khoảng trời pha lê/ Lòng tôi hôm ấy
buồn ghê/ Đâu còn em gỡ tóc thề cỏ may” và “Lạnh nghe cơn gió bấc lùa/ Cỏ bông
may dệt tím mùa nhớ thương” (Lưu Vĩnh Hạ) thì mới ngộ ra rằng loài hoa cỏ ấy đã
trở thành duyên nợ, giống như một miền cổ tích nguyên sơ chẳng thể nào phôi pha
trong ký ức thủa học trò.
Cỏ may sinh ra vốn
chẳng được cưng chiều trong chốn hoa viên, không được các đấng mày râu hay cánh
quần hồng áo tía chiều chuộng, vuốt ve, chăm sóc vun trồng. Cỏ may chẳng có ai
trồng; chẳng có ai cắt cành, tỉa lá, bới sâu... Hoa cỏ ấy cứ đến mùa quả chín chỉ cần một làn gió thoảng là những hạt may tách vỏ bay đi khắp
muôn nơi để nảy mầm, ra lộc vươn lên thành cây, từng chùm, từng đám ở bất kể
nơi nào, từ đất đá khô cằn bên đường đến những nơi bờ bãi, gò đống, đất hoang.
Cứ thế, cỏ may bám chặt mặt đất lan ra mọi nơi, hít thở khí trời và cam chịu sự
dẫm đạp của thế nhân cùng bao lời oán trách. Cỏ may nhẫn nại, chịu đựng không
một lời ca thán. Cỏ vẫn cứ lặng lẽ, khiêm nhường vươn lên bất chấp giông gió
hay bão bùng dữ dội để phủ xanh đất sỏi khô cằn, che đậy cho những khiếm khuyết
của đất mẹ yêu thương và tô điểm cho đời bằng cái sắc tím nhàn nhạt của bông
hoa phất phơ trong gió nơi đầu bãi, bờ đê, ruộng hoang, đồi trọc... Thế đấy, so
với các loài hoa cỏ khác có lẽ hoa cỏ may phải chịu duyên phận thiệt thòi. Phải
chăng vì sống hoang dã lại kém sắc ít hương nên loài hoa cỏ ấy đã bị người đời
ghét bỏ, xa lánh. Âu đó cũng là số kiếp mà tạo hóa đã bất công bày đặt.
Tạo hóa sinh ra vốn đã vậy nên cỏ may cứ
phải nhẫn nại để sinh tồn. Hình như, vẻ hồn nhiên và không bao giờ biết tự ti ấy
đã giúp cho cỏ may vượt lên tất cả. Trong cái tiết trời lành lạnh của mùa gió
heo may cuối thu, đầu đông lưng đồi cỏ may thi nhau trổ hoa kết quả. Những quả
cỏ may thô ráp nhưng mẩy căng, tràn trề nhựa sống lả lướt, rung rinh trước
chàng gió phong tình vừa gợi lên một vẻ đẹp hoang sơ vừa làm cho cảnh vật trở
nên sinh động hữu tình. Mỗi khi như thế bất cứ ai ngang qua vùng hoa cỏ may hẳn
là những ống quần hay vạt áo sẽ bị hoa cỏ găm đầy. Và tất nhiên lúc đó người ta
cũng dễ phát sinh một cảm giác bực bội, khó chịu không nhỏ với những vị khách
không mời mà cứ quấn vào, cứ xà vào; bám chặt trên tay áo ống quần. Có lẽ, tức
thời bực dọc thì vậy thôi còn thì trong sâu thẳm loài người cũng rất thấu hiểu
và cảm thông với phận hẩm duyên nghèo của những bông cỏ may. Dường như cảm
thông bao nhiêu người ta lại thương cỏ may bấy nhiêu. Bởi thế, người ta mới
chiêu tuyết cho cái hành động đeo bám của cỏ may bằng một sự tích vô cùng cảm
động và cũng rất dễ thương. Đó là một câu chuyện tình buồn đầy ngang trái của
một đôi vợ chồng nghèo. Cứ theo sự tích ấy thì cây cỏ may chính là hiện thân của
một nàng tiểu thư xinh đẹp con của một nhà giàu có. Cô gặp chắc trở trong tình
duyên do gia đình ngăn cấm nên đã phải đi khắp nơi, hỏi hết muôn người mong tìm
người chồng thương yêu nhung nhớ của mình. Bước chân cô đã đi qua bao nẻo đường,
đi cho đến khi không thể cất bước lên được nữa, cho đến khi phải nằm lại giữa
đường mà lòng vẫn không khỏi khắc khoải chờ mong. Cảm kích trước tình yêu sắt
son chung thủy ấy Ngọc Hoàng đã biến nàng thành cây cỏ may và người đời đã gọi
hoa của cỏ ấy là hoa tình yêu, một cái tên rất đẹp chứa đựng bao yêu thương luyến
ái. Có phải chăng khi gọi hoa cỏ may là hoa tình yêu là người đời cũng đã thấu
hiểu, sẻ chia với nỗi bất hạnh của người thiếu phụ nhớ chồng trong những chuỗi
ngày gian nan tìm kiếm vất vả. Và cái tên gọi ấy phải chăng cũng là cách để loài
người ca ngợi một tình yêu nồng nàn chung thuỷ của người thiếu phụ. Tình yêu
đến chết vẫn không hề nguôi nhớ, vẫn không khỏi mong mỏi, kiếm tìm người thương
của loài hoa thô ráp. Thượng đế dường như cũng đã cảm thương với duyên phận của
cô gái, với số phận của đôi lứa nên đã hoá thân cho nàng thành loài cỏ may; để
bất kể ngày hay đêm có cơ hội là có thể đeo bám, găm đầy vào ống quần hay vạt
áo của những ai đi qua với hi vọng được theo đi muôn nơi nhằm tiếp tục hành trình
dò hỏi kiếm tìm người chồng thân yêu của mình trong khắp cõi mênh mông của trời
đất.
Cái thân hình mảnh khảnh gầy guộc vươn cao
khắc khổ của cỏ may tựa như một thiếu phụ thân xác tàn phai, héo hon, xơ xác. Cánh
hoa tim tím, quả may sắc nhọn giống những như muôn vạn mũi kim châm, cứa vào da
thịt người qua dễ gây đau đớn, khó chịu gợi lên nỗi đau buốt của một tình yêu sắt
son trong xa cách đang gửi vào gió cuốn mây ngàn của người thiếu phụ. Những thân
cỏ may giống ấy, sống hết mình yêu thương, thuỷ chung; chết, hoá thân trong tình
yêu bất tử để tiếp tục hành trình che chở cho nhau, nương tựa và nâng đỡ bên
nhau. Hoa cỏ may giản dị, mong manh, khiêm nhường trước hương sắc của muôn loài
cỏ cây hoa lá. Cứ thế, giữa mênh mông trời đất, cỏ may như cố gom lại chút ít duyên
thầm của thanh sắc cùng mùi hương dìu dịu để điểm trang cho những buổi chiều
hôm, gọi về những dáng nét hoang sơ nhưng không kém phần lung linh huyền ảo lãng
mạn như một khung trời cổ tích.
Cỏ may là thế. Vui buồn ai hay?
Giang Hiền Sơn
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét