Hàng rong thì thời nào cũng có và hầu như hiện diện ở bất kỳ địa
phương nào. Bài viết này chỉ riêng nhắc nhớ chút ít kỷ niệm về những gánh,
những xe bán thức ăn, uống bình dân rong ruỗi về đêm. Ở khu xóm tôi sống từ
thuở bé cho đến trung học, nhớ nhất ba người theo nghề bán hàng rong, có tuổi
nghề hơn hai mươi năm…
Một ông bán bánh mì, cứ khoảng tám giờ tối là đạp xe ngang với tiếng
rao “Bánh mì… nóng đây!”. Một giỏ cần xé khá lớn phía sau đựng bánh mì, đậy giữ
nóng bên trên là mấy lớp bao vải trắng, loại bao bột mì. Ông đạp chầm chậm, có
khi dừng lại một chút bên cột đèn chờ khách. Ban đêm trời lạnh mau xót ruột,
người trong xóm cũng thường đón mua ăn chơi. Sau này ông có được cái cát-sét
loa rè rè, lúc nào cũng để phát các bài vọng cổ xưa do các danh ca Phương
Quang, Ngọc Hương, Tấn Tài… hát. Ngồi nhà nghe giọng ca lẫn tiếng rao văng vẳng
từ xa tới gần, rồi lại xa dần theo vòng quay bánh xe, man mác dư âm còn vọng.
Ông bán bánh mì hai cữ, tối và sáng sớm, đều đặn từng ngày. Thời gian sau thấy
vắng ông, hỏi ra mới biết sức khỏe ông sút kém nên con cháu không cho đi bán
nữa…
Một bà bán chè đậu đen đường cát rất ngon, quanh năm suốt tháng mặc
bộ đồ lãnh đen, bọn trẻ chúng tôi gọi là bà Bảy. Cô con gái duy nhất của bà
thường gánh phụ mẹ tới ngã tư ra phố chợ. Gánh chè xuất phát lúc vừa đỏ đèn nên
khu xóm ít ai ăn. Bà bán tới khuya, gần mười giờ mới về lại. Bữa nào còn thức,
nghe tiếng rao “Ai ăn chè đậu đen đường cát… hôn…” thì biết bà bán ế, còn chè.
Mua một chén, ngồi bên gánh ăn, thấm thía hương vị thơm, ngọt từ hột đậu đen
bùi bùi. Tôi biết gánh chè này đâu chừng mươi năm thì bà Bảy bệnh dây dưa rồi
mất. Cô con gái tiếp tục bán một thời gian ngắn, một thân một mình, sau đó dời
nhà đi đâu không rõ. Những đêm mưa, tôi ngồi trước hàng hiên hay vẩn vơ nhớ
tiếng rao của bà cùng mùi chè đậu đen, nhớ dáng gầy gầy liêu xiêu hắt bóng dưới
ngọn đèn đường vàng úa. Sau này tôi hay nghe lại bài vọng cổ “Gánh chè khuya”
do Út Trà Ôn và Út Bạch Lan hát để mà liên tưởng, bồi hồi. Bài hát kể chuyện cô
gái nghèo mười lăm tuổi hàng đêm gánh chè bán nuôi mẹ già. Một ông thầy trong xóm
thương em “chỉ đọc được vần xuôi” nên
dạy em học mỗi trưa. Chừng mươi bữa thì em bỏ học, khuya về thầy đón hỏi, em
khóc nói: “Thầy ơi má đã dạy khuyên/ Dốt
đành chịu dốt đừng phiền người ta!”. Bị đuổi nhà, mẹ bệnh nằm nhà thương, đường
khuya xóm vắng, gánh chè oằn nặng trên đôi vai bé nhỏ, thật là một cảnh đời
chua xót…
Một ông tuổi gần bảy mươi bán bánh dừa nhân tôm thịt, có dịp ăn một
lần thì không thể quên cái ngon đặc biệt. Có thể nói chắc, cả thị xã hồi ấy chỉ
một mình ông bán loại bánh này, với bí quyết, kinh nghiệm riêng khó bắt chước. Ông
gói bánh bằng lá dứa gai. Sáng nào cũng đạp xe lên xã vùng ven cách nhà gần năm cây số, tìm gò hoang rọc lá dứa gai. Nhìn hai bàn tay ông lúc nào cũng thấy vết
cắt, xây xác bởi gai đâm. Trời tối một lúc thì ông đạp xe ngang xóm, một bao
cà-ròn bánh dừa nóng cột sau xe, tiếng rao quen thuộc “Ai… bánh dừa tôm thịt…
bánh dừa…”. Hai tiếng “bánh dừa” đệm sau nghe như lên giọng, như nhấn mạnh điệp
khúc rao hàng có trầm, có bổng. Bánh nóng, thơm, khách ăn một cái chưa hết, ngước
thấy ông dợm đạp xe vội kêu lấy thêm vài cái nữa chút ăn tiếp. Ông vừa đạp xe tà
tà vừa rao, mỗi con phố ít khi ông qua hai lần, khách quên đón thì chờ đêm sau.
Ông mất đột ngột, khách đến viếng bùi ngùi nhìn chiếc xe đạp cũ dựng cạnh mớ
bao, liềm dùng cắt lá dứa gai…
Kỷ niệm tuổi thơ cho dù đã trôi qua rất lâu, nhưng không hề mất.
Thỉnh thoảng ký ức quay về, lòng tôi lại ngùi ngùi tiếng rao khuya, thao thức…
Nguyễn
Kim
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét