- Trang chủ
- |
- Giới thiệu
- |
- Quy ước
- |
- Tác giả
- |
- Thư ngỏ
- |
- Lá thư Bông Tràm
Tác phẩm kỷ niệm 10 năm hoạt động của Bông Tràm, có sự góp mặt của 50 tác giả với trên 100 tác phẩm. Sách dày 312 trang, khổ 13 x 19 cm, giá 100.000 đồng.
Yên Bái không chỉ
có “thiên đường” của những thửa ruộng bậc thang trập trùng tựa như muôn ngàn dải
lụa mềm mại thướt tha, uốn lượn quanh co bên những triền núi cao giữa đại ngàn hùng
vĩ của miền Tây Bắc trong mỗi mùa lúa chín hay mỗi kỳ nước đổ ở Mù Căng Chải mà
còn có một kỳ quan “Hạ Long” vừa phóng khoáng vừa kỳ bí giữa mênh mông của núi,
của đồi còn chất chứa nét hoang sơ xôn
xao trong sóng nước mênh mang với muôn ngàn cảnh sắc mơ mộng, huyền ảo của sơn
thủy hữu tình nằm trên địa phận của hai huyện Yên Bình và Lục Yên: Hồ Thác Bà. Hồ Thác Bà
Trưa cuối xuân. Bỏ
lại những cơn mưa và cái rét nàng bân của ngày hôm trước, bầu trời Thác Bà dường
như trong và xanh trở lại nhưng cũng thực sự chưa được quang đãng, ấm áp hẳn. Chúng
tôi xuống thuyền, rời cảng Hương Lý, bỏ lại thành phố sau lưng bao ưu phiền với
những ồn ào của dòng đời bất tận để tiến ra phía lòng hồ, hướng về phía nhà máy
thủy điện đến với một miền non xanh nước biếc như thể chốn bồng lai. Con thuyền
đưa chúng tôi quanh co theo những con lạch, vòng vo dưới những chân đồi san sát
như bát úp, nhấp nhô trên mặt nước, xanh mướt bóng cây nhưng cũng lộ ra những
ngấn nước bao quanh còn tươi màu son nâu mà cỏ hoa chưa kịp lan phủ. Bồng bềnh
cùng con thuyền trên mặt nước, chẳng mấy chốc, theo hướng mũi thuyền, lòng hồ
bát ngát bắt đầu hiện ra trước tầm mắt thật kỳ thú. Cứ vậy, theo cùng với đó,
cái nóng giao mùa của những tia nắng hanh hao cuối xuân cũng giảm dần để nhường
chỗ cho bầu không khí mát mẻ, trong lành và hình như có phần hãy còn lành lạnh
của hồ nước trong xanh khiến mọi người ai nấy đều trở nên phấn chấn, sảng khoái
và không kém phần phấn khích. Tiếng máy nổ giòn giã, đều đều thả nhịp đẩy con
thuyền lướt nhẹ trên sóng biếc trong xôn xao nắng, xôn xao gió của tiết trời
đang chẩn bị sang hạ.
Mê mải trong nắng
xuân, con thuyền đưa chúng tôi tiến dần ra lòng hồ để du ngoạn trên sóng nước dạt
dào, mênh mông. Trong khoảng bao la của đất trời sông núi, những đám mây đang “vắt
nửa mình” sang hạ dường như cũng còn rất đỏng đảnh; lúc xanh, lúc trắng, bồng bềnh,
phiêu lãng như thể dong chơi trên mặt nước để tận hưởng cho hết vẻ đẹp xuân thì
của biển hồ hãy đang còn xuân sắc. Thuyền càng vươn xa, không gian và cảnh hồ
càng hiện lên huyền diệu. Cả một vùng thủy tú trên miền non cao mở ra trong tầm
mắt vô cùng thơ mộng và trữ tình khiến cho tất cả mọi người ai nấy dường như
quên hết cái mỏi, cái mệt của chặng đường hơn một trăm năm mươi cây số để thỏa
sức thu vào tầm mắt đủ đầy những nước non muôn trùng diệu vợi của cảnh sắc
hương trời mùa xuân; của sông nước lung linh, huyền ảo trong một màu xanh mát,
dịu hiền. Giữa mênh mông của sóng nước màu ngọc bích, biển hồ Thác Bà hiện lên với
muôn trùng sóng biếc lăn tỏa trong với những nhấp nhô núi, nhấp nhô đồi và chạy
ra miên man tứ phía. Ngắm nhìn biển hồ mênh mang ta đâu chỉ nghe thấy ngàn năm
linh khí bồi tụ của đất trời mà còn ân cảm biết bao công sức, trí tuệ của những
chàng Sơn Tinh thời hiện đại cùng ân tình của đồng bào hai huyện Yên Bình và Lục
Yên khi phải từ bỏ những “bờ xôi ruộng mật” của ông cha để làm thành “một Thác
Bà reo gọi điện sông Đà”.
Có lẽ, mấy chục
năm trước, chẳng ai ngờ cái con sông Chảy man dại và dữ dằn theo mùa một thời
đã biến thành một trong những hồ nước nhân tạo lớn nhất của Việt Nam. Hồ ấy với
công trình thủy điện Thác Bà, đứa con đầu lòng của ngành thủy điện cùng biết
bao huyền thoại từ thủa khai thiên lập địa với những tên động, tên hang, tên
núi, tên làng... xen lẫn lớp lớp trầm tích văn hóa của người Việt cổ ẩn chứa
trong những di chỉ khảo cổ hang Hùm nằm bên lưu vực sông Chảy hay những di vật
công cụ thời kỳ đá mới ở lòng hồ địa phận Lục Yên và những câu chuyện kể về những
chiến công vệ quốc của Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật trong cuộc kháng chiến
chông Nguyên - Mông xâm lược ở châu Thu Vật năm 1285 còn truyền lại trong ký ức
của người bản địa đã làm thành một sức hút đầy quyến rũ đối với bất kỳ ai đã một
lần biết đến đất này.
Mặt hồ phẳng lặng,
nước xanh thăm thẳm với muôn ngàn con sóng lăn tăn nối nhau chạy về phía chân
trời mờ xa càng khiến cho cảnh sắc đất trời và biển hồ trở nên thơ mộng quá đỗi.
Đắm chìm trong hương sắc nước hồ mùa xuân và cuốn theo lời kể của bác chủ thuyền
tốt chuyện, chúng tôi không khỏi ngỡ ngàng về cái sự rộng lớn, mênh mang của hồ
trên núi. Thì ra, diện tích mặt nước của hồ phủ rộng gần hai trăm năm mươi cây
số vuông, trải dài trên gần một trăm cây số, chứa khoảng từ tám đến chín tỷ mét
khối nước. Hồ Thác Bà quả là không nhỏ. Cái hồ và công trình thủy điện kỳ vĩ này
từng nổi tiếng một thời và được nhiều người biết đến là một kết quả của tự
nhiên kết hợp với đôi bàn tay, khối óc tuyệt diệu của con người Việt Nam vào những
năm sáu mươi, bảy mươi của thế kỷ trước, khi chúng ta bắt tay vào chinh phục “nguồn
than trắng vô biên” để tiến hành điện khí hóa và công nghiệp hóa phục vụ công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Giờ đây, biển hồ và công trình thủy
điện Thác Bà “vang bóng một thời” có thể đã khiêm nhường để lại sự vĩ đại cho
những hồ và công trình thủy điện khác nhưng dấu ấn vàng son một thủa vẫn còn
đó, đâu đã dễ phôi pha.
Miên man trong những
nghĩ suy giữa hiện tại và quá khứ của Thác Bà đã khiến tâm trí ngược dòng thời
gian. Trở về với khởi điểm của những năm sáu mươi của thế kỷ trước, có nghĩa là
trước khi trước khi đắp đập chặn sông làm thủy điện, cái vùng nước non nhất mực
trữ tình nhưng cũng vô cùng hung dữ này của Yên Bái từng được truyền tụng với
hai dải nước liên hoàn đêm ngày gầm gào, không ngừng không nghỉ, tung bọt trắng
xóa; dòng chảy tưởng như xô đá để trút nước tựa như từ trên trời cao xuống hạ
giới, ầm ầm chảy xiết, khiến đất trời vang vọng. Hai dải nước ấy chính là hai
ngọn thác hùng vĩ mà người bản địa thường gọi là Thác Ông và Thác Bà. Hai ngọn
Thác Ông và Thác Bà ấy song hành với dòng sông Chảy hoang dã như một cô gái Di
gan đưa nước về hợp lưu với sông Lô để xuôi dòng tìm đường về biển lớn. Nhưng, thế
rồi, một ngày đẹp trời năm 1971 (ngày 5 tháng 10), con đập và công trình thủy
điện với sự trợ giúp của người Nga được hoàn thành, hai ngọn thác hung dữ một
thủa và dòng sông Chảy man dại kia đã vĩnh viễn nằm yên dưới mặt nước trong
xanh để làm thành một biển hồ mênh mông đêm ngày lăn tăn sóng gợn nhẹ nhàng, êm
đềm soi bóng và tưới mát cho hơn một ngàn ba trăm quả đồi lớn nhỏ xanh rợp bóng
cây, làm chim bay mỏi cánh cùng biết bao đồng ruộng dưới miền hạ lưu.
Bây giờ, những dữ
dằn của Thác Ông, Thác Bà không còn nữa. Nó đã một đi không trở lại, lặng lẽ,
chìm sâu dưới lòng hồ mênh mang sóng nước dịu êm. Thác Ông và Thác Bà chỉ còn
trong ký ức và huyền thoại gắn liền với những tên cầu, tên hồ... Có lẽ, để nhớ
về hai ngọn thác, người ta đã đặt tên hồ và công trình thủy điện là Thác Bà còn
Thác Ông được dùng làm tên cho một cây cầu ở cách đó không xa. Âm vang, vẻ đẹp
cùng sức sống của những ngọn thác và đôi bờ sông Chảy một thủa vẫn còn đó và dư
sức mê dụ lòng người trong những huyền thoại về những kỳ tú của tạo hóa trên miền
non xanh hữu tình sông nước.
Tạo hóa và đôi bàn
tay tuyệt diệu của con người Việt Nam đã làm nên không ít những biển hồ. Cách
Thác Bà không xa là hồ thủy điện Na Hang (Tuyên Quang) cũng nổi tiếng là một “Hạ
Long trên núi” của xứ hoa lê. Nhưng cứ kỹ càng mà xét hẳn ta sẽ nhận ra đó là hồ
của núi còn Thác Bà là hồ của đồi. Không giống hồ thủy điện Na Hang, nước xanh
ngăn ngắt kẹp cứng các vách đá dựng đứng. Hồ thủy điện Thác Bà, dòng trong ngọc
bích âu yếm, ấp ôm những chân đồi thoa son một cách dịu dàng để rừng xanh nghiêng
mình soi bóng xuống mặt nước long lanh. Cứ vây, nhẹ nhàng trong đắm mê, nước hồ
Thác Bà suốt bốn mùa thủy chung với một màu xanh ngọc. Sớm chiều lấp lánh ánh mặt
trời lung linh, đêm về thăm thẳm in hình trăng sao trong âm vang của muôn tiếng
trùng rả rích. Dường như cái cái chất Di gan của dòng sông Chảy ở nơi thượng
nguồn Hà Giang và suốt hành trình qua Lào Cai và đến khi nhập vào Yên Bái, nằm
trọn trong lòng hồ cũng đã bị phôi pha đi ít nhiều; cái mạnh mẽ, hoang dã đã
thuần hơn để trở nên dịu hiền, mộc mạc. Xem ra biển hồ mênh mông kia giống như
một nàng sơn nữ hiền thục đang say giấc nồng giữa nơi rừng thẳm núi cao nhưng
cái nét phóng khoáng, hoang dại của một thời vẫn còn chất chứa, ẩn hiện đâu đó trong
cái dáng vẻ bí ẩn nhưng chất chứa sự lãng mạng, mộng mơ khiến cho biển hồ đêm
ngày lai láng, quyến rũ, mê muội lòng người.
Phan Anh
© Tác giả giữ bản quyền. Vui lòng ghi rõ nguồn Bông Tràm khi sử dụng lại nội dung này.
|
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét