- Trang chủ
- |
- Giới thiệu
- |
- Quy ước
- |
- Tác giả
- |
- Thư ngỏ
- |
- Lá thư Bông Tràm
Tác phẩm kỷ niệm 10 năm hoạt động của Bông Tràm, có sự góp mặt của 50 tác giả với trên 100 tác phẩm. Sách dày 312 trang, khổ 13 x 19 cm, giá 100.000 đồng.
Đờn Ca Tài Tử (ĐCTT) được Unesco chính thức ghi danh ngày 05/12/2013, ngày 11/02/2014 đã trao quyết định công nhận là di sản văn hóa phi vật thể đại diện nhân loại.
Đây là một trong tám di sản văn hóa phi vật thể của Việt Nam
được Unesco công nhận và là duy nhất của Nam bộ sau Nhã nhạc Cung đình Huế
(2003). Không gian Cồng chiêng Tây Nguyên (2005), Dân ca Quan họ Bắc Giang -
Bắc ninh(2009), Ca Trù (2009), Lễ Hội Thánh Gióng (2010), Hát Xoan (2011), Lễ
Hội Hùng Vương (2012).
ĐCTT là một trong những khía cạnh văn hóa và đời sống của người
dân Việt được un đúc từ trong tư tưởng nhân văn của Phật giáo, đã thể hiện rõ
nét nhất. chứng minh cho sức sống hơn hai ngán năm tồn tại trên mãnh đất Tiên
Rồng này.
Chưa nói đến loại hình nghệ thuật Nhạc Lễ và Hát Bội đặc sắc của
Nam Bộ, bởi vì có Nhạc lễ mới có Hát Bội, có Hát Bội mới có Cải Lương mà nếu
nói vui theo khẩu khí của những lão nông xưa là “Nhạc Lễ là Cha Hát Bội, Hát
Bội là Ông Nội Cải Lương”.
Ở đây xin chỉ nói đến ĐCTT, từ ĐCTT mới phát sinh ra phong trào
Ca Ra Bộ và từ nó phát triển lên cao thành bộ môn nghệ thuật Cài lương ngày
nay.(1,2)
Vì vậy, nói đến ĐCTT cũng tức là nói đến cải lương, mà thẩm sâu
hơn trong đó có cả Nhạc lễ và hát Bội Nam bộ.
Như chúng ta biết, phong trào ĐCTT và Ca ra bộ hình thành và
phát triển tự nhiên trong tuyệt đại bộ phận cư dân bình dân Nam bộ từ cuối thế
kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Trong bối cảnh đất nước đang chìm sâu trong đêm dài đô
hộ của thực dân Pháp.
Những giá trị văn hóa dân tộc và nếp sống đạo lý bản địa bị
khuynh đảo trước làn sóng “Tây hóa”. Đặc biệt từ năm 1919, khi nước Pháp vừa
bước ra khỏi cuộc thế chiến lần thứ nhất, vòng kềm tỏa đô hộ tại Việt nam nói
chung và Nam Kỳ nói riêng được tăng cường tổng lực hơn.
Thực dân Pháp lúc bầy giờ tự tin thế vững chắc về nhuộm tây hết
nếp sống người Nam Bộ, nên cho du nhập nhiều sản phẫm văn hóa của “nước mẹ”
nhiểu hơn, đặc biệt là chính sách ngu dân thâm độc.
Trong bối cảnh đau thương của dân tộc như vậy, Phật giáo cũng
cùng chung số phận hẩm hiu, chia sớt niềm tủi nhục với non sông đất nước.
Những bài ca ĐCTT và Ca ra Bộ lúc này dùng rất nhiều điển tích
cũng như gương sáng các bậc anh hùng, ca ngợi sự trinh trinh hiếu liệt của đạo
lý phương đông, âm thầm gìn giữa ngọc sáng quê hương bên tiếng đờn giọng ca có
pha đội chút xót xa thời mất nước.
Và ngay lúc này đây, vào đêm rằm (15 tháng 8 ) 1919, tại chùa
Vĩnh Phước An (theo nhiều tài liệu), làng Vĩnh Hương, tổng Thanh Hòa, tỉnh Bạc
Liêu (nay là phường 2 thành phố Bạc Liêu) nhạc sĩ Cao văn Lầu (1892 – 1976) đã
cho ra đời bài hát đã trở thành bất hủ, được nhà sư Nguyệt Chiếu đặt tựa là Dạ
Cổ Hoài Lang nhịp đôi-12 câu. Mượn nỗi niềm người cô phụ, và cũng là khúc đoạn
trường của chính cuộc đời mình, đêm khuya nghe tiếng trống công phu chùa nhớ
phu lang, thầm nhắn gởi với các phong trào yêu nước của các nghĩa quân một niềm
tin son sắt.
Cũng tại ngôi chùa này, người thầy của nhạc sĩ Cao Văn Lầu là
nhạc khị - người được tôn xưng là hậu Tổ ĐCTT, đã đào tạo nên các học trò xuất
sắc cùng với Ca Văn Lầu là Trịnh Thiên Tư, Mộng Vân, Ba Chột, Tư Bình…bên cạnh
đó, người thứ hai luôn được nhắc đến chính là sư Nguyệt Chiếu – ngoài việc đã
đặt tên cho bài Dạ Cổ Hoài Lang còn có công lớn chỉnh tu và lập hệ thống bài
bản của Nhạc Lễ Nam bộ. Sư Nguyệt Chiếu cũng là người thấy tạo nên tên tuổi cho
nghệ sĩ Năm Nghĩa (Lư Hòa Nghĩa 1917 - 1959),Sanh Xía, Ba Khuê và Bảy Kiên-
cũng từng là tu sĩ ở chùa Vĩnh Hòa có pháp danh Chơn Thành và là người được gọi
là danh ca những năm đầu của thế kỷ XX…
Năm 1927 từ căn bản bài Dạ Cổ Hoài Lang được nhạc sĩ Tư Chơi,
tức soạn giả Huỳnh Thủ Trung đờn mở ra thêm nhịp tư với tựa đề bài hát Tiếng
Nhạn Kêu Sương.
Năm 1934, thời kỳ vang danh nhất của bản Dạ Cổ Hoài lang nhịp
tư, nghệ sĩ Năm Nghĩa lại phát triển nó lên gấp đôi, tức thành nhịp 8 với bài
hát Văng Vẵng Tiếng Chuông Chùa. Đây cũng là bài cổ nhạc đầu tiên được thu vào
đĩa than Béka (Asia) 78 tours do chính nghệ sĩ ca và được phát hành rộng rãi.
Bắt đầu từ đây bản vọng cổ được thăng hoa, được nhiều soạn giả
nhạc sĩ mở rộng nhịp 16, rồi 32, rồi dừng lại ở nhịp 64, tức là bài vọng cổ
ngày nay chúng ta thường nghe, và là bài chủ đạo trong ĐCTT và sân khấu cải
lương.
Bên cạnh những bài bản mang đậm tư tưởng Thưởng thiện phạt ác,
quả báo luân hồi của nhà Phật và những vở cài lương thời kỳ ban đầu này cũng
cùng chung chất liệu đạo dức đặc thù ầy như Quan Âm Thị Kính, Quả phụ Hàm oan,
Nhân Quả Đời Anh, Khúc oan Vô Lượng, Hoa Rơi Cửa Phật, Nặng gánh Nợ Đời…nghệ sĩ
Năm Nghĩa còn cho thu thanh nhiều bài ca nói về Phật, về Hiếu Đạo trên đài phát
thanh và đỉa Béka, Asia nhằm đưa nghệ thuật đặc sắc của vùng đất Nam Bộ này có
dịp lan nhanh và xa rộng.
Qua đó, chúng ta nhận thấy, thời buổi đen tối nhất của dân tộc
cũng là lúc những hình thái văn hóa nghệ thuật hãy còn tiềm tàng và được hình
thành, phát triển âm thầm trong những vùng xã hội thấp nhất, nơi của đa số
người bình dân lam lũ cơ hàn.
Tất nhiên Phật giáo bao giờ cũng có mặt song hành với tất cả các
diễn biến liên quan đó, vì những nơi thấp nhất, nghèo khó nhất, lạc hậu nhất
thời mất nước, Phật giáo cũng có mặt, dù rằng thực dân luôn tỏ ra khoái chí cho
đó là sách lược đẩy lùi Phật giáo ra xa các vùng đô thị thành công, mái chùa
vẫn luôn là nơi che chở và là điểm tựa tinh thần rất quan trọng cho mọi người.
Nhạc Lễ, ĐCTT, Ca Ra Bộ và đặc biệt sự kiện ra đời của bài Dạ Cổ
Hoài Lang, tất cả đều đều mang trong minh tinh thần Phật giáo, như máu và thịt
liền nhau trên bước đường nuôi dưỡng ý chí, tinh thần dân tộc thiêng liêng. Sư
hóa thân của Phật giáo trong mọi hoàn cảnh, trong mọi nghịch hay thuận duyên
đều có những giác trị nhân văn sâu sắc.
Ngày nay, ĐCTT và Cải Lương chưa được văn hóa Phật giáo chúng ta
chú ý và trân trọng, hoặc khai thác đúng mực; cá biệt có vị còn tỏ ra khinh
miệt bởi vẫn còn tư tưởng “Tây học”, một di chứng thời mất nước. Điều này nếu
là một người làm văn hóa văn nghệ Phật giáo sẽ nguy hiểm biết chừng nào.
Có thề nói , ĐCTT và Cài lương chính là gia sản có bàn tay và
tinh thần Phật giáo gầy dựng nên. Với bề dày lịch sử thấm đậm tinh thần dân tôc
của mình, Phật giáo có quyền tự hào về điểu này, có quyền khai thác triệt để
những thành tựu của ĐCTT và Cải Lương mà chưa cò một tôn giáo nào trên đất nước
này có thể mạnh tay hơn được.
Trước nhất, có lẽ người ta còn e dè vì tính lịch sử cũng như giá
trị nhân văn sâu sắc của ĐCTT vá Cải Lương. Hơn 100 năm qua, ĐCTT và Cải Lương
tồn tại, văn hóa Phật giáo chưa bao giờ trực tiếp khai thác lợi điểm của mình
để phổ cập công việc hoằng hóa. Sự thiếu vắng và nếu có là những méo mó của
hình thái ĐCTT và Cài Lương trong văn hóa Phật giáo đã chứng minh điều này.
Không phải chúng ta không có cán bộ văn hóa Phật giáo, nhiểu nữa là đằng khác,
nhưng ghế có hạn mà người ngồi thì quá dư thừa cũng chẵng làm được gì cho khả
quan hơn.
Qua việc ĐCTT được UNESCO công nhận là văn hóa phi vật thể đại
diện cho nhân loại, nhìn về văn hóa Pậht giáo chúng ta, người viết bây giờ mới
thấm thía, chợt giật mình nhớ đến câu danh ngôn xứ người mà chắc rắng trong
chúng ta ai cũng một lần được nghe qua: “Làm thầy thuốc mà sai là hại một mạng
người, làm thầy địa lý mà sai là làm hại một dòng họ, làm chính trị mà sai là
làm hại một đất nước, làm văn hóa mà sai là hại cả một thế hệ” (Vương Dương
Minh).
Dương Kinh Thành
© Tác giả giữ bản quyền. Vui lòng ghi rõ nguồn Bông Tràm khi sử dụng lại nội dung này.
|
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét