- Trang chủ
- |
- Giới thiệu
- |
- Quy ước
- |
- Tác giả
- |
- Thư ngỏ
- |
- Lá thư Bông Tràm
Tác phẩm kỷ niệm 10 năm hoạt động của Bông Tràm, có sự góp mặt của 50 tác giả với trên 100 tác phẩm. Sách dày 312 trang, khổ 13 x 19 cm, giá 100.000 đồng.
Hoa bằng lăng không thơm kín những con đường như hoa sữa, hoa sưa. Người ta không dùng hoa bằng lăng ướp trà như hoa ngâu, hoa sói, hoa lài… Hoa bằng lăng cũng không có mật ngọt như hoa nhãn, hoa cà phê, hoa bạc hà… để dâng cho đời những sản phẩm mật ong thơm ngọt.
Nhưng sắc tím của hoa bằng
lăng làm người ta xao xuyến. Sắc tím của thủy chung.
Nhà mợ Út tôi cũng có một
cây bằng lăng.
- Cây bằng lăng có gì mà mẹ
quí? Phải chi nó có hoa thơm, có giá trị… thì con không tức, đàng này… Mặt tiền
nhà mình nhỏ như cái bánh bò bông, con muốn mở mặt bằng làm ăn mà mẹ cũng không
cho là sao?
- Nhưng nó là kỷ niệm! Mợ Út
dứt khoát.
- Kỷ niệm có nuôi sống con
người được không mẹ?
- Bốp!
Thình lình mợ tám tát con Chung,
ba ngón tay mợ in rành lên mặt nó.
- Hu…hu… mẹ đánh con vì cái
cây vô dụng mối ăn sắp ngã à? Con không thèm nói chuyện với mẹ nữa! Chung chạy
vụt đi còn mợ Tám chỉ kịp gọi “Chung…Chung”
vỡ òa trong sương sớm .
***
Ngoại tôi mất, không ai
trong gia đình còn nhớ lý lịch cây bằng lăng ấy nữa, tôi là người duy nhất
trong đám “hậu sinh” hôm nay được mợ Tám kể lại. Với mợ nó là một kỷ niệm
thiêng liêng mà từ lâu rồi mà mợ không muốn nói với ai, chỉ muốn để kỷ niệm ấy
theo mợ về miền cực lạc (Sao mợ lo xa, bây giờ mợ mới sáu mươi chứ mấy)
… Chiến tranh biên giới Tây
- Mình trồng hai cây bằng
lăng này nghe em, vừa có chỗ giăng võng, vừa có hoa đẹp em ngắm!
- Nhưng anh đi xa, cây ra
hoa chỉ có mình em thấy.
- Bộ em nói anh đi… mười năm
lận à?
- Anh hứa nha… đi nhanh về
với em để em hái hoa bằng lăng kết thành vòng đeo vào cổ anh…
- Sao không đội đầu mà đeo
vào cổ?
- Đeo vào cổ cho dễ giữ
không bao giờ để anh xa em nữa.
Mợ Út dụi đầu vào vồng ngực
rắn chắc của chồng như để lưu mãi mùi người đàn ông quen thuộc mà mình yêu quí.
Nhưng tiếc thay cậu Út tôi
không bao giờ về nữa! Những lá thư đầu tiên cậu Tám nói đang đóng quân ở
Pắc-Tâm-Băng nhưng chính ông ngoại tôi và cả mợ Tám cũng không biết
Pắc-Tâm-Băng là ở phương nào.
Một buổi chiều ông ngoại kéo
rơm về cho bò ăn, vô tình chiếc bánh xe bò đã nghiến nát một cây bằng lăng đang
sức lớn, những chiếc lá non bị lún xuống đất theo đường đi qua của chiếc vòng
sắt bánh xe.
Tiếc thật, nếu lúc đó xe bò
dùng bánh hơi như bây giờ thì cây bằng lăng sẽ không chết vì sức nghiến của
bánh hơi rộng và không “tàn nhẫn” như bánh cây niềng sắt. Mợ Út vừa vun lại gốc
cây mà nước mắt mợ vừa rơi lã chã. Với mợ, hai cây bằng lăng ấy như hai cậu mợ,
linh cảm người vợ có gì đó không lành cho người đi xa.
Ngày mợ biết chắc mình hoài thai được hai
tháng thì cũng là lúc một cây bằng lăng chết khô. Mợ khóc, từ ngày cậu Tám đi
đến giờ mợ mới khóc một lần ra trò.
Ông bà ngoại tôi dỗ dành con
dâu hơn cả con gái, việc nhà, việc ruộng mợ không làm nổi, món ngon, thịt cá gì
ngoại tôi cố làm cho hấp dẫn để mợ ăn vậy mà cơn nghén bắt mợ cứ nôn ra hết.
Ngoại cứ kiên nhẫn làm thức ăn cho con dâu, vì với ngoại, đứa con trong bụng mợ
Út không những là cháu nội mà còn là hình dáng của đứa trai út ít đầy yêu
thương của ngoại nữa. Đáng ra cậu Út tôi không phải ra chiến trường, vì nhà đã
có cậu Hai và cậu Ba làm việc trong quân ngũ. Nhưng vì yêu quê hương nên cậu
phải lên đường.
Mợ Út cứ ốm nghén hoài,
người lép kẹp mỏng dính, ăn uống chẳng được gì, nằm như người bệnh ngặt đến nỗi
ngoại tôi phải nhờ bác sĩ đến vô nước biển cho mợ mấy ngày liền.
Tháng ngày qua đi… cái bụng
của mợ cũng dần lớn lên. Những cú chòi đạp dữ dội của thai nhi khiến mợ nghĩ
rằng nó sẽ là con trai.
Rồi lúc mợ Út có thai được
bảy tháng rưỡi thì cũng là lúc tin dữ báo về: Cậu Út tôi đã thành liệt sĩ!
Giấy báo tử thì có nhưng hài
cốt thì không. Mợ Út không khóc, dường như con người ta khi đối diện với tận
cùng nỗi đau thì không còn nước mắt để khóc nữa. Mợ nằm yên trên giường, người
gầy yếu hơn cả lúc ốm nghén. Tối ngày mợ đắp mền kính cả đầu, thân thể bất
động, chỉ có cái bụng tròn tròn nhấp nhô.
Hai mươi mốt tuổi mợ Tám góa
bụa.
Cây bằng lăng vẫn âm thầm
lớn lên, như cái thai không biết mình đã mất cha từ trong bụng mẹ. Chỉ có mợ Út
là thu mình nhỏ lại, mợ không muốn ra đường, không hay đi ruộng, chỉ cơm nước
trong nhà…
Biết mình sinh con gái mợ
buồn ra mặt vì không còn cơ hội tìm lại hình bóng người chồng yêu quí ngày nào,
nhưng ngoại tôi an ủi “Thôi, vậy cũng tốt con à… biết đâu là con trai con lại
nhớ thằng Công nhiều hơn…” nhưng ngoại tôi cũng quay đi lau nước mắt.
Đứa con gái được đặt tên
Trần Thị Thủy Chung, càng lớn bé Chung càng mũm mĩm, lời đầu tiên tập nói vẫn
là “ba…ba…” như bao đứa trẻ khác. Nhưng lúc đó nó không biết “ba” là gì cho đến
khi nói rành rọt nó hỏi mẹ “Ba đâu”, mợ Tám chỉ lên trời và nói “Ba con đi máy
bay qua Pắc – Tâm - Băng công tác mai mốt về…”. Vậy mà nó “tin như sấm”, mỗi
khi có tiếng ù ù của máy bay là nó chạy ra sân gọi “Máy bay, máy bay qua Pắc –
Tâm – Băng chở ba về cho Chung nhé! Chung thèm ba lắm”. Bé Chung không nói
“nhớ” mà nói “thèm” làm mợ Tám khóc sướt mướt, cho đến bảy tuổi nó vẫn nhắn máy
bay chở ba về cho nó.
Ông bà ngoại tôi già rồi
bệnh mất. Mợ lo tròn trách nhiệm người con dâu Út. Ông bà ngoại di chúc lại, là
để hết phần đất hương hỏa đang có ngôi nhà và cây bằng lăng cho mợ Út để mẹ con
bé Chung có nơi an cư mà lạc nghiệp. Hai cậu và mẹ tôi cũng chẳng tranh giành
gì, vì ai cũng đã có tư có riêng và quan trọng là họ thương mợ Út thời thanh
xuân góa bụa.
***
Có người đàn ông tìm đến với
mợ Tám sau 15 năm cậu tôi thành liệt sĩ, là một tay thợ sửa xe Honda. Vợ chết,
hai con đi làm xa, đề nghị khi “góp gạo thổi cơm chung” thì mợ chặt cây bằng
lăng ấy lấy mặt bằng để ông mở cái tiệm sửa xe. Mợ Út cũng nghĩ rằng tuổi mình
sẽ già, con gái sẽ lấy chồng. Thôi thì gá nghĩa cùng nhau, để có người nương
tựa tuổi già. Nên mợ đồng ý phần bỏ vốn đầu tư cho người sắp làm chồng của mợ. Nhưng
cây bằng lăng thì không ai được đụng đến, người đàn ông ấy bằng lòng bằng cách
“Thôi thì cất sát gốc cũng được” nhưng rồi ông ta…lặng im biến mất
Mợ càng giữ gìn cây bằng
lăng như báu vật. Vậy mà bây giờ nhỏ Chung muốn chặt cây để lấy mặt bằng mở cửa
hàng quần áo thời trang. Và mẹ con xung đột.
Nhỏ Chung bỏ đi từ sáng về
với bó lục bình đầy hoa trên tay, nó khe khẽ chọn những hoa còn búp cắm vào
chiếc bình nhỏ để chút nữa mang lên bàn thờ ba. Rồi lấy cục xà bông đi tắm, nó
xát mãi lên mình như muốn “một phần tư kem dưỡng da” trong xà bông át đi mùi
bùn, mùi rong bám khắp người đó vậy. Tắm xong, Chung bước vô nhà mợ Tám cũng
không hay, mâm cơm đậy lồng bàn nguội ngắt, mợ ngồi hai bàn tay bưng lấy mặt,
nét khắc khổ và tủi buồn nằng nặng cả không gian.
- Mẹ… con xin lỗi… chị Loan
đã nói cho con nghe hết rồi. Chung đến bên mợ Út quỳ xuống và gối đầu lên chân
mẹ.
- …
- Sao từ trước giờ mẹ không
nói cho con biết cây bằng lăng đó là của ba trồng. Thôi mẹ hén, con xin lỗi,
con không dám đòi đốn cây bằng lăng nữa đâu. Mình để đó mai mốt ba về giăng
võng nằm nghe mẹ!?
Mợ Út tôi xoa đầu con gái,
nó đã có chồng có con rồi đó, mà cứ vẫn trẻ con làm nũng mẹ. Mợ nói với nó
rằng, cây bằng lăng đó, mẹ đã không còn nghĩ nó là cây nữa, mà nó là ba của con
đấy! Ngày đó cưới nhau, ba mẹ còn không có được tấm hình cưới làm kỉ niệm. Chỉ
còn cây bằng lăng này, nó lưu giữ mùi mồ hôi tay của ba con khi ông bứng nó về,
mẹ chỉ còn duy nhất một kỉ niệm đó, nên mẹ muốn giữ nó đến ngày mẹ về với ông
bà. Rồi con muốn bứng gốc hay chặt bỏ nó cũng được.
- Không… không… con sẽ giữ
cây bằng lăng mãi, con biết rồi, con sẽ xem đó như là ba của mình. Ba suốt đời
che mát cho con, trổ hoa cho con ngắm, cho con của con hái cài lên tóc trẻ thơ!
Mợ Út tôi gục gặc mái đầu đã nhiều sương nhiều muối của đời người.
Mùa hạ lại về, quê tôi có hai màu hoa tím đua nhau khoe sắc. Lục bình tím ngát trên con sông Cẩm Giang huyền thoại và màu bằng lăng ngoài ngõ, trên đường đang giương hàng trăm nghìn con mắt tím như ngóng đợi người đi xa về lại cho tròn câu hẹn ước thuở nào.
Đào Phạm Thùy Trang
© Tác giả giữ bản quyền. Vui lòng ghi rõ nguồn Bông Tràm khi sử dụng lại nội dung này.
|
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét