- Trang chủ
- |
- Giới thiệu
- |
- Quy ước
- |
- Tác giả
- |
- Thư ngỏ
- |
- Lá thư Bông Tràm
Tác phẩm kỷ niệm 10 năm hoạt động của Bông Tràm, có sự góp mặt của 50 tác giả với trên 100 tác phẩm. Sách dày 312 trang, khổ 13 x 19 cm, giá 100.000 đồng.
Tôi vẫn nhớ đinh ninh, ấy
là vào mùa xuân năm 1968, lúc đó tôi đang học năm thứ hai Khoa Văn - Trường Đại
học Sư phạm Việt Bắc.
Được tin nhà văn Nguyên
Hồng sẽ gặp gỡ với sinh viên Khoa Văn, chúng tôi rất mừng vui, háo hức. Và rồi,
sau khi nhận được tin chừng dăm hôm, nhà văn của Những ngày thơ ấu (1938), Bỉ
vỏ (1938), Địa ngục và lò lửa
(1946)… đặc biệt là bộ tiểu thuyết đồ sộ dày hai nghìn trang sách gồm bốn tập
đầy đặn - Cửa biển (được viết từ năm
1961 đến năm 1976), đã lên Thái Nguyên và “cập bến” tại hội trường Khoa Văn của
chúng tôi.
Sau lời giới thiệu trịnh
trọng và thân mật của thầy Hoàng Nhân - Chủ nhiệm khoa, một ông già nhỏ thó với
hàng râu thưa xuất hiện trên bục giảng - nhà văn Nguyên Hồng! Cả hội trường đứng
bật dậy và vỗ tay nồng nhiệt. Nhà văn khả kính của chúng ta thật mộc mạc, giản
dị đến không ngờ, có lẽ chỉ “sang” hơn một chút về hình ảnh ông (trước cách mạng)
qua cách nhìn thân mật và có phần suồng
sã của văn hữu Nguyễn Tuân: “Ăn mặc xuềnh xoàng tới mức người ta tưởng là lập dị”.
Trên tay ông là một cuộn bìa lớn, màu trắng đục. Sau nụ cười cởi mở rất hiền,
ông giở cuộn bìa, treo lên bảng và hăm hở giới thiệu ngay: Đây là sơ đồ bộ tiểu
thuyết Cửa biển mà tôi sắp hoàn thành.
Tôi, ngồi ngay trên hàng
ghế đầu (chỉ mong nhìn cho rõ nhà văn yêu quý), ngước lên nhìn vào tấm bìa màu
xin xỉn dở trắng đục, cơ man là chữ, những mũi tên, những khoanh vuông tròn mà…
đọc làm sao nổi! Rồi, nhà văn say sưa, xúc động thuyết minh, giảng giải về bộ
tiểu thuyết đồ sộ của mình sắp hoàn thành. Quả là, như nhiều người đã nhận xét
về bản tính của Nguyên Hồng: Nhà văn dễ xúc động và nhất là ông rất hay… khóc.
Lúc thao thao bất tuyệt, tôi dễ nhận ra ông với ánh mắt long lanh vừa như chứa
lửa, lại vừa như rưng lệ. Ngoài hội trường, như đang “đồng tình”, “đồng cảm” với
nhà văn của chúng sinh lao khổ mà giăng giăng những lớp mưa xuân bàng bạc, thoảng
bay… Ông giảng giải say sưa, hào hển cứ như đang đứng trước từng nhân vật của
mình, nhất là những cảnh ngộ trắc trở, khốn quẫn của nhân vật mình đang thai
nghén, sáng tạo…
Tôi cứ nhớ mãi câu chuyện đã trở thành giai
thoại của Nguyên Hồng: Khi đọc lại bản thảo của mình, tự nhiên ông bật khóc nức
nở, khi nhân vật Gái đen (Trong tiểu thuyết Sóng
gầm của ông) bị chết mà tác giả không “cứu” được. Ông khóc thương, xa xót
cho những nhân vật “nhỏ bé”, khốn khổ của mình, hay ông đã khóc, từng khóc cho
chính số phận bất hạnh của mình: Năm 12 tuổi, Nguyên Hồng đã mồ côi cha - người
cha từng ốm đau, nghiện ngập và không có tình thương với vợ con. Gia đình ông vốn
nghèo khổ, càng trở nên sa sút, bế tắc. Mẹ ông lén lút đi bước nữa, để rồi bị
nhà chồng ruồng bỏ, đến con đẻ cũng không được gặp mẹ. Hẳn là từ cảnh ngộ buồn
thảm và bi đát ấy, Nguyên Hồng sớm tìm đến cảm thông và xót thương với những
con người lao động khốn khổ, “dưới đáy” xã hội.
Hội trường Khoa Văn im phăng phắc nghe nhà
văn của những con người cùng khổ nói chuyện, tâm tình. Ngoài trời, đang vào độ
xuân, vẫn mưa, thoảng nhẹ như mơ hồ. Lũ sinh viên chúng tôi, mới độ đôi mươi,
chăm chú nghe nhà văn như nuốt lấy từng lời tâm huyết của Nguyên Hồng. Tôi cứ
nhớ mãi một đôi lời của ông trước khi kết thúc buổi giao lưu: Nhà văn phải là
người bạn gắn bó, tâm đắc của những con người cùng khổ mà phẩm hạnh sáng trong,
cao cả! Nhà văn cũng nhấn thêm rằng: “Nghề văn là nghề nhọc nhằn, nghiệt ngã và
song phẳng lắm. Những con chữ anh viết phải được chắt ra từ cảm xúc thực, từ
tim óc, máu thịt anh”. Những lời tâm huyết gan ruột của nhà văn, hẳn đã được
“chắt ra” trong những trang viết sôi nổi mà da diết đến thống thiết qua: Những ngày thơ ấu, rồi kế tiếp đến hàng
loạt các truyện ngắn, truyện vừa của Nguyên Hồng - Bảy Hựu, Hai dòng sữa, Miếng bánh, Giọt máu, Đêm giải phóng…
Hội trường Khoa Văn của
chúng tôi khi đó trên một quả đồi được dựng bằng tranh tre nứa lá và lợp bằng
lá cọ. Khi đi xuống những bậc thang đất, tôi đi ngay sau nhà văn. Nguyên Hồng
bước đi thong thả, tự tin. Chợt, tôi giật mình khi nhà văn trượt chân, suýt
ngã. Cũng may (may cho ông và may cho cả tôi nữa), Nguyên Hồng nghiêng đổ vào
tôi và tôi kịp đỡ lấy ông. Đôi dép cao su ông mang, cũng vì thế mà tuột tung
quai ra. Tôi định cúi nhặt giúp nhà văn, Nguyên Hồng đã cười rất hiền: Để tớ!
Thế rồi, ông nhanh nhẹn rút từ trong túi quần ra một cái rút dép, lồng trong
chiếc vòng tròn tròn được làm bằng kim loại mỏng, một sản phẩm nào đó của Nhà máy
Dệt Nam Định. Cái rút dép đó thời chúng tôi dường như ai đi dép cao su cũng “thường
trực” trong túi quần, phòng bị quai “lìa” khỏi dép. Lão nhà văn bình thản, ngồi và rút lại từng
quai dép bị tuột. Có lẽ, sự việc này đã quá quen, quá thạo với nhà văn nghèo gốc
Thành Nam… Ông lại cười, rất hiền và bình thản đi xuống tiếp.
Từ phố Hàng Cau - Nam Định,
nhà văn Nguyên Hồng ra đất cảng Hải Phòng, sống chật vật và viết văn tại xóm
lao động nghèo. Cũng từ những năm tháng đó, sự nghiệp văn chương của nhà văn cần
lao thực sự khởi phát qua những tác phẩm tiểu thuyết, truyện ngắn có giá trị với
nguồn cảm hứng nhất quán hướng về tầng lớp cần lao. Cho đến năm 1959, Nguyên Hồng
lại chủ động ngược lên Bắc Giang và tiếp tục “khắc khổ, cần lao và tranh đấu” với
những trang viết, lại tiếp tục “chắt ra” những con chữ - trang văn từ máu thịt
tâm tư của mình, hướng tới những con người khốn khổ và cao quí, cho đến hơi thở
cuối cùng trước tiểu thuyết Núi rừng Yên
Thế - Tập 2 (viết về người anh hùng Hoàng Hoa Thám) đang còn dang dở. Trong
hơi thở tàn bên người vợ, Nguyên Hồng chỉ còn thốt lên, đứt đoạn: “Tiếc quá… Hội
Nhà văn…”, rồi đi.
Hôm nay, viết những dòng
kỷ niệm đã qua xa trên năm chục năm rồi, tôi chợt ngẫm: Một nhà văn rất giầu
tình cảm trong văn và cả trong đời như Nguyên Hồng, cũng là một nhân cách lớn bởi
tình yêu thương rất mực với đồng loại, với quê hương và sáng tạo bền bỉ, quyết
liệt đến tận phút chót của cuộc đời. Tâm trí tôi như chợt hiện lên hình ảnh nhà
văn của những con người dưới đáy xã hội xưa cùng ánh mắt, nụ cười hiền và sáng,
cùng những sợi râu bạc rung lên, cả khi ông cười và khóc.
© Tác giả giữ bản quyền. Vui lòng ghi rõ nguồn Bông Tràm khi sử dụng lại nội dung này.
|
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét