GIỚI THIỆU NHÀ VĂN ĐOÀN VĂN ĐẠT
Nhà văn ĐOÀN VĂN ĐẠT sinh ngày
30/4/1953, quê quán Núi Sam - Châu Đốc.
Từng làm nhiều công việc mưu sinh, công tác ở
Phòng Văn hóa Thông tin Châu Phú, Phó Chủ tịch Hội VHNT Châu Phú. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam.
Hiện thường trú tại xã Vĩnh Thạnh Trung, Châu Phú, An Giang.
Tác phẩm đã xuất bản: Đệ
tử ruột (tập truyện, VNAG 1993), Ác mộng đàn bà (tập truyện, VNAG 2001), Thông thiên (tập truyện ký, NXB HNV 2012). In chung 20 tập truyện ký.
Giải thưởng văn học: Giải A Cuộc thi Truyện ngắn An Giang 1993, Giải I Cuộc thi Truyện ngắn An Giang
2000, Giải II Cuộc thi Truyện ngắn An Giang 2005, Huy chương Vì sự nghiệp VHNT
Việt Nam.
NGHĨ VỀ NGHỀ VIẾT
Tôi là nhà văn ư? Vậy thì giống
cái gì? Giống cô bia ôm. Đề tài ôm ấp rất
nhiều, nhưng hầu hết bị cho vào quên lãng. Giống con bò. Nhai rất kỹ trước
khi cho vào dạ dày. (Vậy mà có lúc còn bị sình bụng). Giống người tu sĩ.
Muốn thành chánh quả không thể mượn hoặc mướn người khác tu dùm. Giống người
đạp xe lôi. Không thể dứt bỏ cái thùng đạp phía sau. Muốn vươn tới, chỉ có cách
là chiến thắng nó. Giống nhà nông. Phải cày ải khó nhọc mới có thu hoạch.
Có điều nhà văn thường gặp thiên tai địch họa, cả đời cày ải may mắn được một
mùa bội thu cũng đủ cho nhà văn yên lòng xuôi tay nhắm mắt… Ngược lại, nếu tôi là người làm
ruộng, đạp xe lôi, đi tu, bán bia ôm, con bò... tôi có nét gì giống nhà văn?
GIỚI THIỆU TÁC PHẨM CHỌN LỌC
XE TĂNG VÀ RUỒI
Ở trong nhà tù nầy, cái người ta
để tâm suy nghĩ nhiều nhất là gì? Cha mẹ, vợ con, bồ bịch?... Không. Tổ quốc,
danh dự, trách nhiệm?... Cũng không. Là chuyện ăn, chuyện cốt tử của con người.
Đói là phải nghĩ tới nó. Ở trong tù đói triền miên nên phải triền miên nghĩ về
nó. Nhất là loại tù “mồ côi”, suốt thời hạn không người thăm nuôi, mà loại này,
trong cái quân lao thường xuyên có cả ngàn quân phạm này, trung bình cứ ba thằng
thì gặp một. Ruồi và Xe Tăng nằm trong số tù mồ côi đó. Những cái tên không được
đẹp đó là do đám tù Khu F đặt cho, dựa theo nghề ngỗng mỗi thằng. Thật ra cả
hai đều có tên họ đàng hoàng, khá đẹp là khác. Gọi là Ruồi, đơn giản là do nó
kiếm ăn bằng nghề đập ruồi. Còn Xe Tăng thì lòng vòng hơn. Số là toàn quân lao
có sáu khu, đánh số từ A tới F. Mỗi khu lập ra một đội xe tăng, nói cho oai, thực
ra đó là những cái thùng phuy loại 200 lít, được xỏ ngang bằng cây sắt “ấp chiến
lược”, và thằng nào phải ghé vai vô làm công việc khổ sai này được gọi
chung là Xe Tăng. Xe tăng chỉ chở duy nhất một mặt hàng: rác. Có lẽ trong các
loại rác trên đời, các nhà tù là thứ bét nhất. Cũng là hầm bà lằng hàng trăm thứ
hôi thúi bỏ đi, nhưng là thứ bỏ đi của những người sống tận đáy xã hội, liệu có
còn gì?... Vậy mà còn mới lạ!
Mỗi sáng, nơi bãi tập kết rác ở
góc trái sân quân lao có hàng chục thằng tù đói, tù mồ côi ngồi đứng vất vưởng
chực hờ. Mấy thằng Xe Tăng gọi chúng là ma đói. Chốn tù tội chẳng đời nào có
cúng kiếng, đám ma đói chực hờ là chực hờ rác. Khi có chiếc xe tăng nào trờ tới,
chúng ào vô tranh giành, bươi móc, tận dụng tối đa các thứ thải loại vốn chẳng
nhiều nhỏ gì, nào vỏ chuối, cùi bắp, đầu mẩu bánh mì... Có thằng chẳng kịp rửa
ráy, lượm được miếng nào cho ngay vào miệng miếng đó. Những thứ không ăn được
nhưng vẫn còn chút giá trị như bọc nilong, giẻ rách, dép sứt... chúng dành lại,
có khi cũng đổi được đồ ăn.
Trước khi có nghề mới, thằng Ruồi
cũng có thời gian làm ma đói ở bãi rác này. (Dĩ nhiên lúc đó đám tù gọi tên nó
theo cái nghề khốn khổ này). Ruồi vốn nhỏ con, giò cẳng lại bị thương tật,
tranh giành sao lại đám kia, may mà nhờ thằng Xe Tăng to như hộ pháp, đứng lăm
lăm cây sắt ấp chiến lược nên chẳng thằng ma đói nào đám giành giật với nó. Nhờ
vậy Ruồi luôn được phần nhiều. Được miếng nào gọi là ngon Ruồi luôn giành
cho bạn, nhưng thằng Xe Tăng chẳng đời nào cho vô miệng, nó gớm, dù xét về nhiều
khía cạnh, nó là thằng rã ruột nhất khu F này.
“Mầy cứ nhắm mắt ăn đại, chết
chóc gì. Ráng ăn để có sức nay mai cãi lộn với quan tòa”. Có lần Ruồi đưa Xe
Tăng cái cùi bắp đã được rửa sạch, rồi thúc giục nó nhưng Xe Tăng chỉ cầm lấy rồi
ngao ngán lắc đầu. Lúc đổ rác, chính mắt nó thấy thằng Ruồi bươi ra một nùi
băng bông đầy máu mủ trước khi bắt gặp cái cùi bắp này, nhớ là muốn ói, đưa vô
miệng sao nổi!
“Mầy to con lớn xác mà khẩu phần
cơm cũng ít ỏi như mọi người, đã vậy còn thêm vác nặng. Tao biết mầy gớm, thôi
để tao tính...”. Ruồi quày quả đi về hướng cổng khu. Lát sau nó quay lại chỗ Xe
Tăng đang ngồi bên gốc dương già, vẻ mặt hớn hở: “Tao mới đổi được cái này”. Nó
móc ra từ túi ống quần một vắt cơm cỡ nắm tay, bẻ ra chia cho bạn. “Ba cái đồ mủ
tao ki cóp hổm rày, cộng thêm cái này - Ruồi chỉ vào cái áo đang mặc trên
người - Tụi nó mới chịu đổi. Từ nhiều ngày trước, cái áo vằn biệt động quân đã
bị chủ nhân nó lần lượt gỡ hết bốn cái túi đem bán, giờ bị xắn thêm nửa tay áo
bên trái, trông chẳng ra hình thù quân phục gì nữa. Trong quân lao công dụng số
một của đồ kaki lính là làm chất đốt. Bọn tù có thăm nuôi thường lén lút nấu nướng.
Trong cảnh sống khốn khổ người ta mới phát huy hết những kỹ năng tiềm ẩn; nửa
tay áo này cộng với vài bọc nilong, chúng có thể nấu chín được năm, sáu nồi
cơm. Nhìn cái áo trên người của bạn, Xe Tăng bỗng nhiên liên tưởng đến ông Táo,
nó nửa muốn tức cười, nửa muốn gào lên khóc! Nhưng chuyện tình nghĩa thời bỉ cực
ấy đã qua rồi. Giờ đây cứ nhìn tư cách thằng Ruồi đang hành nghề ở góc nhà phân
phát cơm, cách cây bồ đề nơi thằng Xe Tăng đang ngồi chừng chục bước chân,
không ai nghĩ nó là ma đói nữa. Ruồi ngồi đó, chân duỗi chân co, giơ cái bàn
sưng vù lở lói, rụng gần hết ngón ra nhữ ruồi. Trên bắp vế gác nửa ổ bánh mì.
Miệng nhồm nhoàm nhai. Chốc chốc nó chồm tới, bộp nhanh một cái, ít nhất là một
con ruồi lăn quay xuống đất. Đoạn nó cầm lên ổ bánh hoặc với tay lấy lon guigô
nước trà bên cạnh, ngửa cổ tu. Công đoạn sau thuộc về khách hàng, cũng là tù
nhân cả thôi, nhưng thuộc loại tù cha, tù có thăm nuôi, đang im ỉm ngồi phía trước.
Sau tiếng“gộp”, vị khách sẽ lên tiếng đếm và chồm tới lượm xác kẻ thù cho vào
bao giấy kiếng thuốc hút. Trăm lần như một, không mảy may sai. Cứ đủ hai chục
con thì tiền trao cháo múc, không tiền thì hàng đổi hàng. Ruồi đổi chuối,
đổi cơm, đổi thuốc hút... Chẳng đời nào có chuyện cho không. Nhưng đừng tưởng
công việc của Ruồi dễ xơi, đôi khi nó cũng bị tai nạn nghề nghiệp khi gặp nhặng
hay ruồi xanh, vốn là loài phàm ăn to xác, ra tay chậm một tích tắc là phải trả
giá bằng cú cắn giựt thịt.
Lúc đầu nhìn Ruồi thỏa thuê ăn uống,
thằng Xe Tăng tức lắm. Bạn bè lúc đói có nhau, lúc ăn lại ngoảnh mặt. Mà giữa
hai thằng nào có chuyện gì. Đêm đó sau ngày đầu thằng Ruồi hành nghề mới, nằm
bên nhau, Xe Tăng thật thà khuyên bạn: “Ruồi à, vết thương bàn chân mầy dạo này
ẹ lắm rồi, mày cho ruồi bu suốt ngày coi chừng bị cắt cụt chân”. “Cụt chân còn
hơn chết đói”. Ruồi giận lẫy nói. Xe Tăng nặng giọng: “Mầy tính suốt đời ở
trong tù này à?”. “Kệ tao! Mầy đừng dạy đời”. Chỉ vậy thôi, rồi như mượn cớ, từ
bữa nó Ruồi cắt đứt mọi liên hệ với bạn. Có ăn không mời, ăn dư liệng bỏ. Nó lại
bỏ tiền hối lộ thằng trật tự phòng để được xếp nằm giường, coi như thay đổi
giai tầng. Nhiều thằng mồ côi nằm dưới nền xi măng như Xe Tăng, thấy Ruồi
có ăn, mon men lại gọi nó bằng anh, anh Ruồi nghe ngọt xớt!
Đời mà! Xe Tăng lại lẩm bẩm hai
tiếng xưa như trái đất như để tự an ủi mình. Hồi lâu khi thấy Ruồi đứng lên
nhét tiền vô túi với vẻ mặt mãn nguyện (giờ nó đã mua được chiếc áo lính khác với
đầy đủ bốn túi), Xe Tăng ngoảnh mặt đi, bất giác nó ngước lên trời thở ra một
tiếng rõ dài. Tít trên cao ấy trời vẫn xanh và mây vẫn bay, nhưng nó còn bụng dạ
nào mà vẩn vơ chuyện trời mây ấy. Nó đói, ngày thứ mấy mươi rồi không nhớ, chỉ
biết là dai dẳng lắm rồi, gần như hết sức chịu đựng rồi. Cái cần thiết bậc nhất,
cũng là mối quan tâm bậc nhất của nó hiện nay là ăn. Ăn gì cũng được, miễn là đừng
cho đói nữa. Ôi! Cái đói dai dẳng không làm cồn cào ruột gan, bủn rủn tay chân,
mê muội tâm thần như những ngày đầu. Cái đói dai dẳng làm cơ thể người lịm dần.
Rồi tri thức, tri giác cũng lịm dần theo. Chỉ còn một thứ bản năng âm âm u u
quay mòng theo số kiếp mỏi mòn; mở mắt là nhớ tới cái ăn, nhắm mắt là nghĩ tới
cái ăn, nằm mơ cũng thấy toàn chuyện ăn...
Có lúc Xe Tăng muốn chạy vụt tới
bên Ruồi, vuốt ve nịn nó, phủ phục van xin nó, làm ơn làm phước bạn ơi, tôi đói
quá, sức sống đã cạn rồi, xin cho tôi một vắt cơm, hay một tô đi, một thau đi,
tôi sẽ nhai, sẽ ngốn, sẽ nuốt hết. Rồi sau đó bạn cứ chặt bàn chân tôi, thay
cho bàn chân thương tật làm cần câu cơm của bạn hiện giờ. Tôi đổi đó, sẵn sàng
đổi đó...
Nhưng chẳng biết sao Xe Tăng
không thể làm được điều đó, hàng chục lần như vậy. Có cái gì như níu kéo nó lại,
buộc nó phải ngoảnh mặt đi. Như lúc này, nó đang ngồi dưới gốc cây bồ đề cổ thụ
trước sân chùa khi vừa xong chuyến tải rác cuối cùng, đói và mệt làm đôi chân
nó như rã ra, trái tim nó như vỡ ra. Ngôi chùa Phật giáo này nằm ở vị trí trung
tâm quân lao, cặp kè với nó là ngôi nhà thờ Thiên Chúa, cả hai đều khá bề thế.
Có điều lạ là ở mỗi khu tù cũng đã một cặp như vậy nhưng chỉ nhỏ như những cái
miếu thổ thần. Quân lao lập ra hàng đống công trình thờ phụng để làm gì, chẳng
thằng quân phạm nào tìm hiểu. Ngoại trừ ngôi nhà thờ, ngày chủ nhật lai rai có
một vài thằng tù, còn ở các ngôi chùa chẳng một mống nào đặt chân đến.
Bọn chúng là vô đạo cả hay đơn giản
là nghĩ mình chẳng có tội tình gì? Do đại duyên gì mà Xe Tăng bước vào đây? Chẳng
nợ duyên gì cả. Tình cờ nhìn vô chánh điện, nó phát hiện trên bệ thờ tượng Phật
Tổ có một dĩa trái cây. Bản năng đói khát xô nó nhào vô cái cổng chùa đang khép
hờ, dù biết làm chuyện tài đình này nó có thể bị giám thị hay trật tự đánh cho
bỏ mạng, hoặc có thể bị chồng thêm một bản án nữa. Nhưng khi vào tới bên
Phật, chút thần trí còn lại làm nó rụt tay.
Dĩa ngũ quả với đầy đủ chuối,
mãng cầu, đu đủ... trông thật ngon mắt chỉ là thứ đồ mủ bán đầy ngoài chợ! Nó vội
chuồn nhanh ra ngoài, ngồi bệt dưới gốc cây bồ đề, buồn bã đưa mắt về phía thằng
Ruồi. Nhưng Ruồi đã bỏ đi rồi, nó lại ngước mắt lên trời thở dài thườn thượt.
Xe Tăng ngồi hồi lâu chợt trong thần trí u mê của nó như có gì đánh động. Ô!
Trên vòm lá xanh kia vài ba con chim sẻ đang chíu chít, rỉa rói cái gì đó. Sâu
chăng? Không, nhìn kỹ là trái bồ đề, hình như mới vào mùa nên trái xanh còn dày
đặc trên cành. Lũ chim này hay thật, chỗ nào có trái chín là chúng chuyền tới
bâu mỏ tranh giành. Chim ăn được thì... Mắt Xe Tăng chợt sáng lên, nó ngóng cổ
chờ. Hồi lâu như thương tình gã tù đói khát, một trái đen méo mó cỡ đầu ngón
tay út thả độp xuống nền gạch, Xe Tăng chồm tới cho ngay vào miệng. Lần đầu
tiên nó ăn thứ trái này, chát chát, ngòn ngọt ở lớp vỏ lầy bên ngoài, cái hột
to cứng ngắt bên trong, và hầu như chẳng có thịt thà gì. Kệ! Có còn hơn không.
Nó kiên nhẫn ngồi lượm thêm khoảng chục trái nữa đến khi lũ chim vỗ cánh bay
đi.
Nhờ múp được một ít bồ đề đầu
mùa, Xe Tăng thấy trong người dễ chịu hơn. Nó đưa mắt nhìn ra sân quân lao. Nắng
đã lên cao, song đám tù được xổ chuồng từ sáng sớm vẫn còn lẩn quẩn khá đông, tốp
ngồi, tốp đánh hoặc tới lui nhộn nhạo, la lối ồn ào giống như cửa chợ. Chỉ có
điều đặc biệt là ở đây không hề có bóng dáng phụ nữ, trăm phần trăm là cánh đực
rựa mà hầu hết đều ở lứa tuổi mười mấy, đôi mươi. Ấy là những chiến binh mà qua
quân phục còn sót lại trên người họ, biết là không sót quân binh chủng nào của
quân đội Cộng hòa. Nói còn sót lại, là bởi khi bước vào đây nón mũ, giày vớ,
dây nịt phù hiệu, cấp bậc, bảng tên đều bị bọn giám thị, trật tự lột sạch. Thêm
cái đói triền miên, khiến những tên tù mồ côi vốn chiếm đa số ở đây xén dần từng
mảnh quân phục làm mồi cho bà hỏa để đổi lấy đồ ăn, chờ ngày ra tòa lãnh án.
Ôi! Những bộ quân phục một thời là niềm tự hào của quân lực, là vẻ tự tôn khinh
bạc của những chàng trai khoác nó, là nỗi khiếp đảm cho những người yếu bóng
vía hoặc nỗi đắm say cho những cô gái bồng bột, trăng hoa. Nào đồ hoa, đồ vằn,
đồ trâydi; nào mũ trắng, mũ đen, mũ nâu, mũ xanh, mũ đỏ; nào phù hiệu mãnh thú,
ác điểu, giáo mác, gươm đao... Cái nào cũng hì hờm, dữ tợn. Trong số họ có người
tự nguyện, có người bị bắt buộc mang vào. Họ từ khắp chiến trường Vùng II chiến
thuật bị quân cảnh, an ninh quân đội điệu về đây với đủ can tội: trộm cướp, giết
người, hiếp dâm, chống lệnh chỉ huy, đào ngũ, đào tẩu... Phần đông trongsố họ
không lạ gì chuyện bắn bò, giết ngóe, bắt vịt, bắt gà, quậy phá trà đình, tửu
điếm... Lắm khi họ, những đồng đội, đồng ngũ, đói no sống chết bên nhau, tới kỳ
lương quây quần bên chai rượu, lấy gamen cùng gõ nhịp hát bài “Huynh đệ chi
binh”: “Huynh đệ chi binh là gì? Là chung đời lính thương nhau khác chi thâm
tình... Từ đơ dèm cà cuống và rồi thăng lên đại tướng đều là huynh đệ chi
binh... Sống có sống, chết có chết là huynh đệ chi binh. Giúp đỡ lẫn nhau là
huynh đệ chi binh”. No say ca hát là vậy, chứ thực tế trong quân ngũ mạng thằng
nào nấy lo, lương thằng nào nấy giữ. Ở ngoài đời còn vậy, nói chi đến lúc mạt vận,
sa chân vào chốn quân lao hiểm ác này. Đây là nơi đói khát, đọa đày. Nói chuyện
phải quấy chủ yếu bằng tay chân. Cách giáo huấn duy nhất là dùng nhục hình như
đối với loài vật. Thằng nào có tiền, có thăm nuôi hoặc làm trùm băng nhóm thì
làm tù cha. Thằng nào mồ côi, đói khát thì làm ma đói, ruồi, xe tăng, hoặc
kăngguru (một loại tù chuyện nghiệp thụt cầu). Bọn họ là tù mồ côi, đa phần là
do gia đình ở quá xa, giao thông thời chiến trắc trở, không tiện đi thăm nuôi.
Hoặc có khi là chuyện sĩ diện, sợ người thân thích, bạn bè biết mình rơi
vào vòng lao lý tội tù, họ cam chịu nhục nhã, đói rách bởi vào đây thằng nào
cũng như thằng nào, không có chuyện hệ thống quân giai, cũng không hề có huynh
đệ chi binh gì ráo. Đấy! Ngay trước mặt thằng Xe Tăng, chếch về phía trái cổng
chùa, một thằng tù quân phục còn bảnh bao, có vẻ như gốc lính kiểng đang vênh mặt
phì phà điếu thuốc Pallmall. Trước mặt nó là ba thằng “huynh đệ chi binh”, gồm
một biệt động quân, một hải thuyền và một bộ binh. Riêng thằng bộ binh trên vai
áo còn để lại cái bệt in đậm dấu vết ba cánh gà trung sĩ I. Cả ba thằng đều
trong tư thế hườm sẵn, chờ thằng lính kiểng ném tàn thuốc xuống là nhào vô. Có
khi u đầu, chảy máu chỉ vì một tàn thuốc hèn mọn này!
“Keng... keng... keng...” Tiếng kẻng
quân lao vừa vang lên báo hiệu tới giờ phát cơm. Quân lao áp dụng kỷ luật nhà
binh rất nghiêm ngặt, ăn uống phải đúng giờ giấc và phải có trật tự. Trước cổng
mỗi khu tù có một nhà mái tole để phân phát cơm. Quân phạm phải xếp hàng theo
thứ tự phòng mình. Phòng 1 phát trước, tiếp theo là các phòng còn lại. Cơm được
khiêng về từ khu hỏa thực của quân lao, đựng trong một cái giỏ sắt lớn,
đáy lót bằng bao bố cũ. Khẩu phần mỗi người tù là một dĩa, ấy là lấy đơn vị dĩa
mà nói, chứ thật ra phần cơm bên trên vắt lỏng tay cũng chỉ được một nắm.
Đúng ra không nên gọi là cơm, bởi
nó là một thứ thức nấu trộn lẫn giữa những hạt gạo vàng khè, nát bấy cùng với
những con sâu gạo dài ngoằng, phần sâu và phần gạo gần như bằng nhau. Mỗi khẩu
phần người quân phạm chỉ được vậy thôi, chẳng có gì thêm. Người quân phạm lần đầu
nhận được phần ăn nầy, chỉ mới nhìn đã muốn nôn mửa. Ấy là anh ta mới nhìn phần cơm
thôi, nếu để ý đến gã phân phát cơm đang đứng trên bục xi măng kia, nhất là hai
bàn tay của gã, mọi chuyện sẽ còn tồi tệ hơn. Ấy là hai bàn tay sưng vù, ghẻ mủ,
với những chiếc móng đóng đầy cáu bẩn. Sức nóng từ giỏ cơm bốc lên làm gã đổ mồ
hôi, đâm ngứa, thỉnh thoảng gã bỏ cái dĩa múc cơm xuống, tay này gãy tay kia, mủ
máu bật ra. Vậy mà đến lúc cuối chính hai bàn tay ấy cào lấy cơm cặn từ đáy bao
bố nát thành ra một thứ khẩu phần gồm: cơm máu mủ chỉ bao bố. Và những thằng
nào xếp hàng sau cùng phải nhận những khẩu phần này, ăn hay không, tùy, nhưng đến
ngày thứ hai thứ ba, cơn đói cào ruột cào gan, làm hoa cả mắt, khiến anh không
còn thấy sâu bọ, máu mủ gì nữa. Anh sẽ quen dần đi. Với sức trai trẻ dời non lấp
biển mà mỗi bữa ăn chỉ được một nắm như vậy, ăn xong anh sẽ còn chóp chép, thèm
thuồng. Lúc đó có lấy cục vàng đổi cục cơm như vậy, anh cũng không màng. Với
Xe Tăng mọi chuyện đã quá quen rồi, chẳng là vấn đề gì. Lãnh xong bát cơm, như
thường lệ nó đi thẳng vào khu, ngồi bên bờ hồ, móc gói muối hột ra.
Trong giây lát vắt cơm sâu cùng
muối hột đã lọt thỏm vào cổ họng nó. Xong, nó cúi xuống lè lưỡi liếm sạch miếng
nilong đựng cơm rồi xếp lại nhét vào túi chờ bữa cơm chiều. Vừa ngước lên, bỗng
Xe Tăng thấy Ruồi từ ngoài cổng lê từng bước một vào, trên tay cầm một dĩa nhựa đầy
cơm, nó đến bên Xe Tăng giọng ngập ngừng: “Xe Tăng... Tao có lỗi với mầy nhiều
quá! Mày cho tao xin lỗi. Hôm đó mầy khuyên tao mấy câu, chẳng biết sao tao đâm
ra ghét mày. Đúng rồi, tại tao ích kỹ... Thôi bỏ qua nghen! Cơm nè, mầy ăn đi,
tao biết mày đói lắm!”. Dĩa cơm của Ruồi gồm nửa phần cơm sâu, nửa phần cơm nấu,
bên trên có chan một lớp nước thịt kho bốc mùi ngầy ngậy. Xe Tăng cầm lấy rồi đặt
xuống bờ hồ, nước miếng nó đã ứa ra nhưng nó cố ghìm lại để làm rõ mọi chuyện với
Ruồi trước đã. “Sao mầy không ăn?”. “Tao ăn không vô. Tao... tao buồn!”. Rồi bỗng
dưng Ruồi sụt sùi khóc. Xe Tăng ái ngại nhìn nó, nỗi căm giận bạn bè phản trắc
bấy lâu như tiêu tan hết.
Một niềm thương cảm chợt dâng lên
trong lòng nó. Hôm nay ngồi gần Ruồi nó phát hiện ra nhiều nét lạ, mặt Ruồi có
vẻ mập ra nhưng đó là cái mập phù, mắt môi hơi sưng, da vẻ bệch bạc như người
thiếu máu lâu ngày, cái bàn chân trái tuy được bó trong lớp vải áo thun nhưng vẫn
bốc ra mùi thum thủm. Thật ra cái mùi hôi ấy đã có từ ngày Ruồi đặt chân vào
đây. Chính Xe Tăng nhiều lần dìu nó ra bờ hồ ngồi, giúp nó rửa ráy, băng bó vết
thương, Xe Tăng còn hướng dẫn nó lấy nilong bọc lại bàn chân trước khi bước vào
phòng. Cái hồ này nằm chếch về phía trước giữa ngôi chùa và ngôi nhà thờ, lúc
đó còn phơi đáy khô. Bọn tù thường tuôn rác rến xuống đây nên nó là hang ổ cho
lũ ruồi, muỗi. Một hôm, có một ngài sĩ quan đeo lon hai bông mai nhưng chẳng biết
giữ chức vụ gì ở quân lao, xuống các khu thị sát, tới bờ hồ này bị lũ ruồi các
loại bu bám vô mặt, y vừa huơ tay đập vừa la hét. Vậy là ngay sau đó mấy chục
quân phạm được phái tới làm sạch lòng hồ, và “hồ cá Trung úy ra đời”. Để cá
Trung úy ăn no, chóng lớn các tay trưởng khu ra lệnh mỗi quân phạm mỗi ngày phải
nộp mười con ruồi, sau tăng lên hai chục con. Từ đó chiến dịch truy sát ruồi bắt
đầu. Cả quân lao từ sáng tới chiều đi tới đâu cũng nghe những tiếng “lộp bộp”
đập ruồi. Đám quân phạm dù ở ngoài lon lá cỡ nào, biếng nhác cỡ nào cũng không
thằng nào dám chểnh mảng bởi cái giá đã được đưa ra thiếu một con là bị một
hèo. Do vậy, ruồi mỗi ngày mỗi cạn dần, phải nhử bằng những thức ăn hấp dẫn như
đường, chuối... chúng mới chịu đậu. Nhưng hấp dẫn hơn cả là cái bàn chân của thằng Ruồi,
khi nó gỡ bông băng ra, cái đầu bàn lở lói đỏ lòm chỉ còn chổng chơ hai ngón cuối,
bốc ra một mùi hôi nồng nặc, thứ mùi hôi thịt chết, lũ ruồi đánh hơi tìm đến
ngay, nó chỉ việc ngồi một chỗ giơ tay đập, có lúc một cú được tới hai, ba con.
Và từ đó nó có nghề mới với một tên gọi mới...
“Cái bàn chân mầy cỡ này ra sao rồi?”.
Xe Tăng nuốt xong miếng cơm cuối cùng, quay sang hỏi Ruồi. Ruồi giương con mắt
đỏ hoe nhìn bạn khẽ lắc đầu, vẻ mặt ủ ê không chút thần sắc, Xe Tăng đưa tay rờ
trán bạn rồi giục: “Mầy bị sốt dữ lắm, thôi vô phòng nằm để tao kiếm nước ấm đắp
cho mày”. Vừa lúc ấy một hồi kẻng dài nổi lên, báo hiệu cho các tù nhân tới giờ
nhốt vô phòng, xế chiều mới được thả ra. Vào phòng Ruồi không chịu lên giường
mà xin đổi lại chỗ cũ, nằm kế Xe Tăng. Không kiếm được nước ấm, Xe Tăng lấy
khăn nhúng nước lạnh đắp đỡ cho bạn, hồi lâu vẫn không thấy đỡ chút nào. Đến xế
Ruồi vẫn nằm thiêm thiếp, bệnh tình có vẻ nặng thêm. Thằng trưởng phòng sau khi
xin ý kiến giám thị khu, nó cho Xe Tăng và một thằng nữa khiêng Ruồi lên bệnh
xá quân lao.
Hai ngày sau, cũng vào lúc giữa
trưa một tay hạ sĩ quan Pháp sộc vào phòng gọi một số quân phạm tới nhận trát hầu
tòa. Y lần lượt đọc từng tên theo số thứ tự 1, 2, 3,... “Số 6 Lê Thành Tỏ, Tỏ
đâu?” Không có ai lên tiếng. Nó lặp lại tên can phạm lần nữa: “Lê Thành Tỏ, cấp
bậc: binh nhì, đơn vị: Sư đoàn 22, can tội sử dụng giấy phép giả để đào ngũ, có
không?” Xe Tăng đang ngồi dưới nền ngóng cổ đợi, chợt nó giật bắn người, lắp bắp
hô to: “Có”. Thì ra gần một năm ở trong tù, quen với tên gọi Xe Tăng, nó hầu
như quên phắt tên họ thật của mình. Tới thằng Ruồi cũng vậy. Tay hạ sĩ đọc tới
lần thứ ba: “Số 10 Trần Công Nú; cấp bậc: lao công đào binh, đơn vị: Liên đoàn
6 Biệt động quân, can tội: hủy hoại thân thể, có không?”. Lần này chính thằng
Trưởng phòng nhớ ra tên thật của Ruồi và đứng ra nhận trát tòa giùm Ruồi.
Vậy là ba ngày nữa, Tòa án Quân sự
sẽ mở phiên xét xử một số quân phạm, riêng phòng 3 khu F này có tổng cộng 10
tên. Tất cả đều sẵn sàng, nhiều thằng đã chuẩn bị hớt tóc, cạo râu, mượn hoặc
mướn đồ quân phục để ra tòa cho có vẻ lịch sự. Đúng ngày tòa mở phiên xử, hiện
diện trước vành móng ngựa chỉ có chín thằng, khiếm diện lao công đào binh Trần
Công Nú. Tin từ bệnh xá quân lao loan về, do bị nhiễm trùng máu cấp tính, nó đã
vĩnh biệt cõi đời trước khi tòa xử vài giờ. Riêng Xe Tăng Lê Thành Tỏ, vốn là
lính quân dịch bị đưa ra từ Vùng IV, bị bắt trên đường bỏ trốn chưa đủ yếu tố
đào ngũ nên chỉ bị kêu án chín tháng tù giam. Như vậy, nó bị lỗ một ngày so với
khoảng thời gian kể từ ngày bị quân cảnh bắt. Bù lại, nó định khi bước ra khỏi
cái quân lao khốn kiếp này nó sẽ bỏ ra một ngày lùng sục các nghĩa địa thí, tìm
thăm mộ bạn Ruồi. Nó van vái Phật Trời ban cho bạn nó kiếp sau nếu được làm người
thì phải là người đúng nghĩa, đừng cho ruồi nhặng bu vào. Được vậy nó mới an
tâm quá giang xe đò làm một chuyến đào ngũ nữa xem sao...
ĐOÀN VĂN ĐẠT (tác giả giữ bản quyền)
___________________________________
Một truyện ngắn sâu sắc, đậm tình yêu thương
Trả lờiXóa