Nắng tháng hai trời đổ lửa, không
một chút gió. Rạ lúa mùa dầy gần hai tấc, giòn như bánh tráng. Huyện Châu Phú bắt
đầu mùa đốt đồng, nông dân dọn sạch ruộng chờ cơn mưa đầu mùa, tháng ba cày đất.
Buổi hoàng hôn nhìn về Bảy Núi màu ráng đỏ quạch, cùng lửa rực chân trời, khói
lam bay mù mù.
Thuở trước, nông dân làm lúa mùa
một năm một vụ. người có ruộng nhiều hằng năm thu hoạch năm bảy trăm giạ, dư ăn
dư để. Người cắt lúa mướn gom góp vài ba chục giạ để dành ăn suốt năm. Dù bệnh
hoạn, đám tiệc hay xài phí cũng không dám đụng đến một hột. Coi ai mướn gì thì
làm thêm, hay mỗi ngày ra đồng săn chuột, bắt rắn, xom rùa, câu lươn… Hôm nào
được nhiều thì đem ra chợ bán.
Gia đình tôi nằm trong số dân
nghèo đó. Từ hôm đìa bàu người ta tát hết, cá trên đồng sót lại không còn mấy
con, ba và tôi (lúc đó tôi được mười lăm tuổi) tính việc đi xom rùa, câu lươn,
bắt cúm núm, bắt quạ…
Sáng ra, trên cánh đồng mênh mông
chỉ toàn tro đen nhẻm, nóng hổi. Cha con tôi chuẩn bị dở cơm đựng
trong bẹ chuối, ém chặt với gói muối ớt. Xong, ba tôi quảy cây xuổng máng theo
chiếc gọng, cùng vài thứ đồ nghề như cây bù kẹp sắt, cây mác vót, vài lưỡi câu…
Còn phần tôi, chỉ vác cây xom rùa ba mũi, cây chĩa lươn và bịt cơm muối.
Cha con tôi cứ nhắm hướng Bảy Núi
đi sâu vào cánh đồng lâm. Trên đường đi, tôi bỗng lượm được con rùa chết cháy.
Chắc tại hôm qua đốt đồng nên nó bị nướng trong đám cỏ. Thế là bữa cơm trưa nầy
cha con tôi được ăn thịt rùa nướng với cơm muối ớt mang theo. Ngon tuyệt! thịt
rùa bủn bủn thơm ngọt lịm. Đâu phải ai có tiền cũng mua được món ăn dân dã nầy?
Đi hơn một giờ thì tới mé đất
lâm, dấu cháy nham nhở, cỏ đế, nghễ, rau muống từng chòm còn tươi xanh. Loài
trăn, rùa thoát chết chạy trốn dưới đám cỏ ấy. Ba tôi đi cặp theo mé lâm vừa đi
vừa xom. Cây chĩa sắt ba mũi bằng ngón tay út nối liền với cái cán cong cong
như cán dù, xom đi xom lại dưới lớp rau muống dày bốn năm tấc, khi mà đầu chĩa
nghe tiếng “cộp” tức trúng lưng con rùa thì bươi cỏ ra bắt. Hoặc khi cây chĩa bị
gồng lên vặn vẹo thì biết trúng trăn hay rắn, lúc đó phải chặt cỏ cho rộng vì sợ
rắn độc… Hôm nay, sao cha con tôi xom qua nhiều chòm cỏ cao mà chưa tìm được
con nào! Nắng chiếu vào lưng nóng hầm hập, mồ hôi rịn chảy. Con mồi lẫn trốn,
con người đi tìm. Cả cánh đồng hoang vu giờ nầy mà tìm bắt được một con rùa, rõ
là khó. Nếu có bắt được đem ra chợ bán cũng chỉ chừng một giạ lúa, so với công
cán của cha con tôi quả là cực khổ!
Kiên nhẫn đi qua nhiều chòm cỏ
cao khác, bỗng một con cúm núm vụt bay lên, nó sợ hãi để lại cái tổ ba trứng
tròn lẵng. Ba sai tôi xuống lung hái một lá sen đem lên bọc trứng, rồi đặt lên
trên cái bù kẹp sắt gài sẵn phía dưới, cách xa một khoảng, ba gút cái ngù làm dấu
rồi bỏ đi. Hồi lâu, con cúm núm mẹ thấy không động tĩnh gì, nhớ tổ bay về ấp
trên mấy quả trứng. Lập tức, chiếc bù kẹp sắt đập rốp, dính vào hai chân. Giữa
cánh đồng mênh mông không bóng người, cũng không vội, cứ để đấy, con cúm núm
không mất đi đâu mà sợ. Cha con tôi lại tiếp tục xom theo mé lung bàu, chỗ
này rùa hay ở, cố tìm bắt vài con. Vừa dứt lời ,mũi chĩa kêu cộp một tiếng thật
lớn. Cha con tôi cùng kêu lên một lượt :
-Rùa !!!...
Rồi cùng nhau vạch cỏ, một con
rùa yếm vàng to chừng hai ký. Nó bị đâm trúng lưng nhưng không thương tích gì.
Tôi ôm con rùa xuống bàu nước rửa sạch rồi bỏ vào gọng.
Quay trở lại cái bù kẹp sắt, tôi
rối rít lấy dây trói chặt hai chân con cúm núm, xỏ vào cây chĩa lươn quảy trên
vai. Nắng lên cao, hai cha con tôi bắt đầu đói bụng. Ba ngó quanh tìm chòm gáo
mát mẻ để ăn cơm.
Nhìn lại đã bắt được hai
con, một rùa, một cúm núm. Buổi sáng nay không uổng công. Vào gốc gáo ngồi nghỉ,
tôi thong thả mở bịt cơm trong bẹ chuối cùng gói muối ớt mang theo, vói tay lấy
cây mác vót, lật ngửa con rùa bị chết cháy lượm được hồi sáng, chặt mấy cái
quanh yếm. Chỉ cần vài động tác thành thạo của tôi là bày ra thịt rùa nướng
thơm phức. Gió sớm đón mưa còn nóng gay gắt. Bầy quạ đen nảy giờ thấy bóng người,
từ chòm gáo bay ra loạn xạ, kêu la oang oác. Không vội ăn cơm, ba nhìn bầy quạ
rồi đưa ra quyết định: “Con ăn trước đi, để ba đi bắt vài con quạ đen này”. Nói
xong, ông ngắt cục cơm nắm trong tay bằng trứng vịt, đoạn xách cây bù kẹp
sắt lội xuống bưng hái một lá sen, đi xa chọn một gò đất cao rồi gài bù kẹp bên
dưới, trải lá sen và nắm cơm bên trên. Xong, quay lại ăn cơm.
Bầy quạ đen dạn dĩ, mắt thật
sáng, chúng đảo vài vòng trên trời rồi đáp xà xuống. Tức thì, cây bù kẹp sắt đập
túm lấy hai chân. Bầy quạ kinh hãi bay nhớn nhác, con dính bẫy kêu la inh ỏi.
Mùi thịt rùa nướng thơm béo ngậy.
Cha con tôi vừa ăn vừa nói chuyện. Cảnh nghèo khó quê dốt của ba, ông muốn nói
cho tôi biết: “Ba dốt bởi nhà nghèo, lớp một học xa trường năm sáu cây số, con
nít thì sao đi học! Vì ba ham cái chữ, cố lò vò đánh vần tự học, may lắm là biết
đọc biết viết. Mình dốt quan quyền ăn hiếp, phải ngậm miệng không biết đường trả
lời. Lợi lộc bao nhiêu chúng tước đoạt hết. Thấy ức trong bụng mà cũng phải dạ,
rồi cái nghèo cái đói vây bủa biết chừng nào thoát ra được!”
Nói tới đây, ba chỉ tay vào vuông
ruộng hai mẫu gần đó, nói tiếp: “Hai mẫu ruộng nầy là của gia đình mình, công sức
mấy năm phá lâm cực khổ. Làm mới được hai năm thì thằng Năm Cây có chức có quyền
chìa ra bằng khoán, mộc đỏ hẳn hoi, nói là đất của nó, nó lấy lại. Mình không
giấy tờ gì cãi không được, đành xuôi tay để nó cướp”. Nghe đến đây, tôi nóng
ran cả mặt, tức tối: “Tại sao nó có bằng khoán?”. “Thì nó làm quan quyền, quen
lớn với Ty Điền Địa, lên đóng thuế mười mấy giạ lúa, xin khẩn hoang mấy trăm mẫu,
chôn trụ đá bốn góc không biết tận đâu. Thế là nó có bằng khoán và đất đó là của
nó”. Tôi làm thinh ấm ức trong cổ họng. Đâu có chuyện bất công vô lý như vậy?
Phá lâm cực khổ, phải đổ mồ hôi sôi nước mắt. Quyết thầm trong bụng làm sao bắt
mấy thằng quan dựa hơi thằng Pháp vào tận đây cho nó làm một ngày, để biết được
một mét vuông đất lâm là đổ bao nhiêu giọt mồ hôi.
Việc phá lâm đầu tiên là chặt ra
từng miếng rau muống vuông vức bằng chiếc đệm, dẫy cho đứt gốc, xúm nhau lật lại
phơi khô. Lớp rau muống dầy bốn năm tấc, phơi khô đâu phải chuyện dễ, rồi phải
siêng trở bề, lật ngược lật xuôi cho khô ráo, đến khi có thể châm lửa đốt được.
Nếu lửa cháy lam nham thì cứ phơi tiếp. Trong nhà có sáu lao động, mỗi năm làm
việc cật lực tối đa phá được năm công đất là giỏi rồi. Hai mẫu ruộng kia gia
đình tôi phải phá tới bốn năm mới thành đất thuộc. Vậy mà chỉ làm mới hai mùa vụ
thì bị người ta gỡ tay lấy mất. Thật tức muốn ói máu! Ngay chỗ cha con tôi ngồi
đây, lâm địa thế này, bỏ hoang mười năm nữa cũng chưa ai làm. Nhưng nếu nhảy xổ
vào khai phá, lập tức có người chìa bằng khoán ra giành đất. Thôi thì cứ làm mướn,
làm thuê cho xong.
Ba nói tiếp: “Nay ba muốn nói ra
để nuôi con ăn học hiểu biết với người, đấu tranh đòi lại công bằng cho người
nghèo. Ba dốt, có thể ví như thế này thì con hiểu. Thí dụ ba kết được chiếc bè,
con lên ngồi trên đó, ba chèo chống qua sông. Sóng gió thế nào ba cũng cố
gắng. Nhưng con nhứt quyết phải đi thì ba mới hết sức làm được. Tới bờ tương
lai sáng sủa, có cái ăn cái mặc không còn cực khổ. Làm việc trong mát có quạt
gió, kẻ đưa người đón. Chớ không phải như ba đây, làm mướn làm thuê ngoài mưa,
ngoài nắng. Nhưng đòi hỏi ở con có quyết tâm hay không thì ba sẽ đưa con qua bờ”.
Tôi không suy nghĩ gì nhiều, trả
lời một cách dứt khoát: “Con nhứt quyết theo ba!”. Thế đã rõ. Trước là tấm lòng
của ba vạch ra cho con một tương lai tốt đẹp. Sau đó, tôi phải tỏ rõ quyết tâm
của mình. Hôm nay ngày chủ nhật, tôi theo ba ra đồng kiếm miếng ăn cho cả gia
đình, để tôi thấm thía ý nghĩa cuộc sống, giá trị miếng ăn và hiểu thấu chân tướng
của sự bốc lột. Thực sự quá nhẫn tâm và người nghèo, dốt cần phải có con đường
thoát ra để đối phó với mọi bất công của xã hội thời bấy giờ. Và tôi sẽ phải cố
gắng học!... Còn ngay lúc này đây, tôi nằm nghỉ một chút rồi đi bắt con quạ đen
dính bẫy lúc nảy cùng tính chuyện câu lươn dưới đáy đìa để đem bán mua gạo, những
thứ vật dụng cần thiết cho ngày mai… Con quạ la lớn trông thật tội nghiệp. Ba
tôi cảnh giác: “Nó hung lắm coi chừng nó mổ trúng mắt”. Ông liền nhổ hết lông
cánh rồi thả nó ra. Tôi trố mắt ngạc nhiên. Ba liền giải thích cho tôi hiểu: “
Bắt theo, nó kêu la giữ lắm chịu không nổi, để nó đi đâu thì đi, xế chiều bắt lại.
Giống quạ này khôn lắm. Rồi chính cái khôn của nó làm cho nó không thoát được.
Lúc nào quạ cũng cảnh giác, nhảy lọt thọt một chút rồi leo lên cao, đứng trên gốc
tràm gẫy, nhìn ba bề bốn phía xem có ai nhìn nó không. Nhưng không còn đôi
cánh, nghiêng qua nghiêng lại rồi té đuội xuống đất. Cứ thế mà nó tiếp tục leo
lên, rồi té xuống… Khi nào muốn bắt cũng không khó khăn gì, ngồi thấp xuống thấy
nó làm xiếc đâu đó thì đến mà bắt”.
Thế là để con quạ ở lại, cha con
tôi đi qua cụm đìa lung. Nhảy xuống đìa tắm cho sảng khoái, bụm ngụm nước lên uống
chua lờ lợ, đã khát. Cha con tôi mò lần theo vách đìa, chợt tìm thấy một hang
lươn láng mướt. Ba lấy đất đắp bờ chận hang, tát nước ra. Con lươn làm thông
hai hang, một hang dưới nước rút xuống chịnh, còn một hang lên khô nằm sâu
trong bờ đìa. Đắp hang xong, ba xom dồn dập dưới chịnh rồi dần dần lên miệng
hang. Con lươn bị động rút lên bờ. Cha con tôi đào theo, hồi lâu bắt được con
lươn vàng nghỉnh, nặng hơn một ký.
Xong, chúng tôi đi dọc theo hai đầu
đìa. Đất bùn chuồi xuống mềm nhảo. Mấy nơi này, nếu có lươn ở thì có “mà lươn”
thổi bùn non, vun lên như cái bánh bò. Gạt bỏ “mà lươn” sẽ lộ ra cái hang. Lấy
tay vỗ mạnh xuống đất, nếu mực nước hụp xuống, tức là dưới hang có lươn. Móc
con trùn vào lưỡi câu rồi từ từ thả xuống. Loài lươn háo ăn, gặp mồi là đớp.
Khi thấy sợi nhợi câu trì nặng, dùn dây lại cho con lươn nuốt sâu vào ruột.
Nhưng rồi không thể nào kéo con lươn lên được. Càng ra sức kéo, nó càng
rút sâu xuống bùn. Chuyện này như đã quen với ba tôi, ông đắc ý thong thả ngồi
đốt thuốc. Rồi vừa kéo cho thẳng, vừa khảy đờn vào sợi dây tửng, từng, tưng…
Con lươn bị đau không trì lại, thế là từ từ nó cũng bị lôi ra khỏi miệng hang.
Đi hết cụm đìa lung, cha con tôi
bắt thêm hai con lươn nữa. Tổng cộng là bốn con, với một con rùa yếm vàng, một
con cúm núm. Lát nữa quay về chỗ cũ sẽ tìm bắt con quạ.
Quả không sai, con quạ đang dáo
dác đứng trên gốc tràm mục, té lên té xuống. Đến bắt nó, một lần nữa nó kinh
hãi, kêu la thất thanh. Thịt quạ không ngon, ăn hơi khét nhưng dân nghèo cũng
phải dùng nó làm bữa, tuyển lựa món ngon để đem ra chợ bán lấy tiền mua thuốc
và nuôi con học hành…
Trên đường về, ba tính nhẫm: “Con
quạ thì xào mặn, con cúm núm thì nấu canh bầu, còn mấy trứng chim cho thằng
cháu nội. Ngày hôm sau sẽ um con lươn”. Những con còn lại, mẹ sẽ đem ra chợ bán
để mua thêm sách vở… Riêng tôi sải đều bước trên cánh đồng nóng như lửa. Tôi
không để ý đến cơn gió tạt ngang cuộn tròn thành con trốt, hốt tro bay vòng vèo
mà tôi đang nghĩ, trước mặt tôi là con sông, cha con tôi cố gắng vượt
qua, đến được bờ bên kia, để tương lai sẽ tốt đẹp hơn. Chỉ thế, mới làm thay đổi
cuộc sống gia đình tôi. Rồi con cháu sau này của chúng tôi sẽ không còn chịu cảnh
nghèo khó, bị ức hiếp, bốc lột nữa…
ĐỖ VĂN NGÔN (tác giả giữ bản quyền)
____________________________________
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét