Con đường đắp xong, ông đặt tên là “Châu Đốc Tân Lộ Kiều Lương” và đến năm 1828 cho dựng bia đá có khắc bài “Châu Đốc Tân Lộ Kiều Lương ký” để kỷ niệm, nội dung bia nói về việc làm đường và lợi ích của con đường. Đường xá thông thương, các làng mạc do ông huy động sức dân lập nên bên bờ kinh Vĩnh Tế dần trở nên sung túc: Vĩnh Ngươn, Vĩnh Tế, Vĩnh Điều, Vĩnh Gia, Vĩnh Thông.
Mới đây đã ngót hai trăm năm…
Tấm bi ký trứ danh một thời nay đã không còn. Nó đã cùng gió bụi thời gian hòa vào từng mạch đất của vùng biên cương hoang vu. Nhưng, con đường Châu Đốc Tân Lộ Kiều Lương còn đó, năm ngôi làng kể trên ngày thêm trù mật, cùng với khu lăng mộ của ông ngày ngày không ngớt khói hương. Những hình ảnh đó không chỉ nhắc nhở cho thế hệ sau những công nghiệp lớn lao của Thoại Ngọc Hầu trong công cuộc kiến thiết biên thùy năm xưa, mà còn gợi bao niềm thương nhớ mà bất cứ người con An Giang xa quê nào cũng phải bịn rịn.
Tôi từng được đọc quyển “Thoại Ngọc Hầu và những cuộc khai phá miền Hậu Giang” của cố học giả - nhà văn Nguyễn Văn Hầu - một người đã bỏ nhiều công sức sưu tầm, ghi chép và để lại cho đời những tác phẩm nghiên cứu vô cùng giá trị về miền Tây Nam bộ. Quyển sách nêu trên là một tác phẩm lớn, bởi qua nội dung tác phẩm ta mới thấy được hết sự quá trình mở đất gian lao của tiền nhân, lại càng thêm trân trọng tấm lòng và công sức lao động của tác giả với quê nhà khi đã dày công nghiên cứu ở nhiều địa điểm, nhiều tài liệu suốt hàng chục năm trời.
Một chi tiết làm tôi hiếu kỳ và cũng không khỏi xúc động, đó là nhà văn Nguyễn Văn Hầu đã đến tận núi Sam đào những nơi mà ông nghi ngờ để tìm tấm bia “Châu Đốc Tân Lộ Kiều Lương ký”. Một việc không tưởng có thề thành công. Đã qua cả trăm năm, bao lần lũ lụt, bao lần đắp đường, xây dựng nhà cửa, chiến tranh… đã làm cho tấm bia chìm sâu trong lòng đất, biết chỗ nào mà tìm. Nhà văn đã rất trân trọng dấu xưa, nhưng có lẽ không có kết quả gì.
Ấy thế mà, ông đã thành công, dầu không trọn vẹn. Qua ba lần đào đất ông đều tìm được những dấu vết hiếm hoi còn lại của tấm bia nầy. Lần đầu tìm thấy vài mảnh vỡ, chưa dám khẳng định có phải của tấm bia hay không. Lần hai đào được nguyên vẹn cái chân bia. Và lần thứ ba, ông đã tìm được một góc trái phía trên đầu của tấm bia, nhưng rất tiếc chữ ở phần nội dung đã mòn không còn đọc được, chỉ thấy lờ mờ mấy chữ tiêu đề “Châu Đốc Tân Lộ…”. Mặc dù bi ký không còn, nhưng ngày nay ta vẫn còn lưu giữ được một đoạn cuối bài ký nầy do một vị cao nhân nào đó chép lại và học giả Ngạc Xuyên Ca Văn Thỉnh đã dịch ra.
Đặc biệt, trong bài bi ký nầy có một chi tiết làm người đời sau phải chú ý, đó là việc tiền nong để đắp đường. Đáng lý ra đường xá được triều đình đứng ra thực hiện, nhưng thực tế thì Thoại Ngọc Hầu chỉ xin “lệnh trên” phê chuẩn. Còn chi phí làm đường do bổng lộc cá nhân ông và các quan viên lân cận quyên góp, nhân dân hỗ trợ sức người và xe cộ. Và cuối bài bi ký ông chỉ khiêm tốn nhận xét việc mình làm rằng: “Làm việc ấy chính là đã tỏ chút lòng đền đáp của kẻ chăn dân”.
Như vậy ông đã tự xin được làm đường, tự huy động sức dân, tự bỏ tài sản ra để làm sở phí, cùng nhân dân chung lưng lo cho sự nghiệp cộng đồng. Ấy vậy mà ông chỉ xem việc nầy là sự đền đáp của ông đối với muôn dân. Thực tế đáng lý ra ông không phải đền đáp, mà đúng hơn chính người dân mới cần đền đáp những công đức to lớn của ông. Nhưng ông cho rằng mình phải làm thế. Đó là bổn phận của một con người, chứ nào phải nhiệm vụ của một vị quan!
Tại miền Nam và thậm chí cả nước, được bao nhiêu vị quan thanh liêm và lo cho dân như thế?
Trong bài ký sự “Ghe lui còn để dấu dầm”, tác giả Trung Việt viết: “Nếu tính danh tướng đánh giặc giỏi ở xứ mình, thì đếm cả đời không hết, nhưng tài kinh bang tế thế ở trong một người, thì hiếm. Sứ mệnh lịch sử đã giao phó vào tay ông để rồi gửi thân xác ở đó, để dân tôn kính là bậc khai quốc công thần… Dấu dầm ghe lui còn nguyên đó, dấu của hơn 300 trăm, như cú sãi nước ngoạn mục, sãi đến đâu, cương thổ đến đó, ghi dấu ở đó lòng dân tạ ơn ông”.
Có lần tôi được xem bức ảnh chụp con lộ nầy vào thập niên 1950, khi ấy chỉ là độc đạo, không nhà, không xóm, cây che bóng mát cũng không, chỉ có vài bụi cỏ thấp liu xiu trong gió. Những năm giữa thế kỷ XX mà con đường còn hoang vắng thế, thử hỏi thời Thoại Ngọc Hầu thì việc đi qua lại con đường nầy còn khó khăn đến độ nào?
Nghĩ đến Tân Lộ Kiều Lương xưa, chợt nhớ “Sơn phòng xuân sự” của Sầm Than: “Lương viên nhật mộ loạn phi nha / Cực mục tiêu điều tam lưỡng gia / Đình thụ bất tri nhân khứ tận / Xuân lai hoàn phát cựu thì hoa”. Cảnh đìu hiu vắng vẻ, cỏ cây núi đá vô tri làm sao biết người đi mất, song cứ mỗi xuân sang hoa lại nở, không cần quan tâm có ai thưởng thức hay không, cứ như có hẹn với nhân thế, với cõi đời nên chúng tự nhiên nở mà không cần bẻ mình làm dáng với ai. Hòn núi Sam kia và Tân Lộ Kiều Lương cũng thế, cứ tự nhiên hòa cùng nhịp thở trăm năm!
Tôi trở lại Tân Lộ Kiều Lương vào một buổi trưa hè đầy nắng, hai bên đường phượng lả tả bay đỏ trời quê núi thân thương. Con đường xưa, nay đã trở thành Quốc lộ phơi mình dưới cái nắng “sáu tháng đạp đất đồng khô” của An Giang. Hai bên đường nhà cửa, dự án đang dần mọc lên.
Mới ngày nào còn hoang vắng, vậy mà giờ nơi đây đã trở thành đô thị, con đường chạy dài xanh tít về phía núi Sam, chỉ có vài cây số nhưng nó đọng lại trong lòng người biết bao hoài niệm. Nhìn từ trên núi Sam xuống, Tân Lộ Kiều Lương giống như con rắn lượn vòng vèo giữa làng mạc, xóm thôn, dưới chân núi là nhà cửa chi chít, xa hơn là ruộng đồng, kinh rạch xanh lơ, và đô thị Châu Đốc nằm tít xa quyện với sương mờ.
Trong văn bia “Châu Đốc Tân Lộ Kiều Lương ký” viết rằng đường phải đi qua bốn cái đầm và mỗi nơi đều được Thoại Ngọc Hầu cho bắc cầu ván kiên cố để người và xe qua lại dễ dàng, thì ngày nay cả bốn cây cầu vẫn còn đó, mặc dù đã bao lần xây dựng lại, nhưng ta cũng nên nhớ rằng những cây cầu đầu tiên là do Thoại Ngọc Hầu bắc.
Trăm năm nước vẫn xanh dòng, vẫn là núi quyện màu mây, mây in dáng núi. Con đường hàng trăm tuổi nầy gợi lại cho người An Giang biết bao niềm nhớ niềm thương, khó tả thành lời. Bao nhiêu lần dâu bể, cuộc thế đổi xoay, nhưng cái tầm vóc kỳ vỹ người xưa gởi gắm vào từng tấc đất thì không thể phủ nhận. Công đức của Thoại Ngọc Hầu vẫn chưa và sẽ không thể phai mờ trong lòng bao thế hệ.
Trăm năm vẫn còn đây vẻ đẹp tự nhiên của Thoại Hà - Vĩnh Tế Hà, còn đây thế đứng lớn lao uy võ của Thoại Sơn - Vĩnh Tế Sơn. Chúng ta tự hào vì hai ngọn núi, hai dòng kinh mang tên ông và phu nhân, ân huệ đó không quá lớn lao như lời trong bia Vĩnh Tế Sơn và bia Thoại Sơn. Nhưng có lẽ niềm an ủi lớn nhứt là Lăng mộ Thoại Ngọc Hầu ở núi Sam vẫn trầm mặc cùng thời gian, mỗi ngày không ngớt khói hương. Bên cạnh đó, nhân dân tôn kính gọi ông với danh xưa gần gũi hơn so với cái tước Hầu, cái chức Khâm sai của ông rất nhiều, đó là “Ông Quan lớn Bảo hộ”. Người ta gọi Lăng Thoại Ngọc Hầu là Lăng Quan lớn Bảo hộ với câu ca dao xưa đến nay vẫn còn truyền lại:
“Nước kinh Vĩnh Tế lờ đờ
Nhớ Ông Bảo hộ cặm cờ chiêu an”.
Hoặc là câu:
“Đi ngang qua cảnh núi Sam,
Thấy Lăng Ông lớn hai hàng lụy rơi
Ông ngồi vì nước vì đời
Hy sinh tài sản không rời nước non”.
Thì, những người An Giang chúng tôi - hỏi làm sao không nhớ, không thương?
Chiều nay đi qua Tân Lộ Kiều Lương, chạnh lòng nhớ về người cũ. Ta gọi đó là “ân đức” chứ không đơn thuần chỉ là “công lao”. Một cánh phượng rơi trên Tân Lộ Kiều Lương, một cánh én bay trên đỉnh non Sam, vài chiếc thuyền chạy dọc kinh Vĩnh Tế, tất cả đầy xao xuyến, đầy thi vị và làm người ta phải nặng lòng. Phải chăng đó là khi tâm hồn ta rung nhịp cảm hoài trong mớ ký ức xa xưa, trong câu chuyện mà bà hay kể? Biết đâu rằng, có thể anh linh người mở cõi còn phảng phất chốn nầy, có thể một gốc cây nào đó bên đường từng do người mở cõi trồng nên và có thể tổ tiên ta cũng từng có người làm dân phu đắp nên con đường đó? Có thể lắm chứ! Tất cả chỉ là có thể nhưng chỉ bấy nhiêu thôi cũng đủ cho ta tự hào.
Mặc cho cuộc thế xoay vần bao thế kỷ, ta vẫn tự hào đang có và sẽ mãi còn đó một Tân Lộ Kiều Lương chạy dài trong lòng người…
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét