Nghe tin ông Năm qua đời, tôi thu xếp công việc về quê đưa
đám tang ông. Ông Năm với tôi không bà con họ hàng, nhưng là người hàng xóm mà
tôi kính trọng.
Nhà ông Năm cách nhà tôi ba căn. Tuổi của ông ở khoảng giữa
tuổi của ông nội và cha tôi. Thuở nhỏ, hình ảnh ông Năm là ấn tượng không tốt đối
với tôi.
Ông nghiêm nghị, khó tánh, sống cô lập trong ngôi nhà giữa vườn cây ăn
trái, có hàng gào kẽm gai cao kín. Không bao giờ ông ngồi quán hay đến hàng xóm
trà đàm với bạn đồng niên. Kể cả đám tiệc, chẳng ai thấy ông đến dự, chỉ cử vợ
con đi thay. Người ta nói ông sống ích kỷ, không hòa đồng.
Tóc búi cao, hàm râu rậm rạp, thân hình ông lực lưỡng, dáng
vẻ phương phi. Miếng vườn cây trái đối với ông là của quý, vì nó gắn liền với sự
sống của ông. Kẻ trộm vào vườn ông bắt được liền trói vào gốc cây, không cần tới
chính quyền phân xử. Ông đi tới đi lui giáo-dục-luân-lý. Người hiếu kỳ bu xem
đông nghịt. Nói đã miệng ông mở trói thả đi.
Ông Năm làm nhiều chuyện có thể gọi là phi thường đối với
cái xóm nhỏ của tôi. Một hàng dừa cao nghệu, mấy gốc xoài to như cổ thụ bị giải
tỏa lề đường, nếu là người khác đã chặt bỏ, còn ông, hì hục bứng dời vào trong
sân nhà. Kẻ qua người lại đều cho rằng ông làm chuyện điên rồ, nhưng một thời
gian sau, ông cũng dời xong, cây trở lại xanh tốt! Điều đáng nể là ông không hề
mướn hay mượn ai phụ tiếp, chỉ một mình đào bới, dùng thế bắn đòn bẩy di chuyển
cây sang chỗ mới, thỉnh thoảng có sự tiếp giúp của mấy đứa con, mà lại toàn là
con gái!
Vợ ông lắc đầu, nhưng không khuyên can được. Điều gì ông muốn
là ông làm. Ông xây một ngôi nhà đúc khá rộng, nóc bằng, sàn bê-tông, nhưng
không mướn thợ. Tự ông làm tất. Mỗi ngày làm một ít. Có người trong họ đến xin
làm giúp, ông đuổi về. Hàng xóm xì xào, có người nói mỉa, căn nhà mười năm chưa
xong. Ông tỉnh bơ. Thực tế trả lời họ, mười hai năm mới xong. Nhưng ông vẫn
hoàn thành. Thiên hạ bái phục.
Lớn lên, tôi mới để ý nhận ra ở ông những tính lạ. Đường xá,
cầu cống trong xóm bị hư hỏng, ông vác đồ nghề ra sửa sang. Cũng một mình, chẳng
rủ rê ai!
Không bao giờ ông cho ai mượn một món gì, và cũng chẳng khi
nào ông mượn vật gì của ai. Tự sắm tự xài. Người ta nói ông lập dị.
Do có sức lực và khéo tay, ông làm thêm nghề phụ là hàn vá nồi
chảo, vè xe, cắt dây sên, lòi tói, uốn dây sắt… Ông làm rất khéo, tất nhiên
khách hàng phải trả tiền sòng phẳng.
Một lần tôi đến nhờ ông vá cái vè xe Honda bị mụt lủng. Người
khách trước tôi là chú Ba Xuổng, chuyên nghề đào chuột (nên thành danh Ba Xuổng),
đang ngồi chờ ông Năm cắt lại cái lưỡi xuổng đã mẻ. Xong, chú Ba trả tiền, ông
Năm không nhận. Tôi ngạc nhiên vì tính ông xưa nay sòng phẳng, sao có trường hợp
ngoại lệ, bèn hỏi:
- Sao ông Năm không lấy tiền?
- Thằng đó quá nghèo, làm giùm cho nó.
Ông hì hục cưa cắt, khoan lỗ, tán ốc… Mồ hôi nhễ nhại. Cả giờ
sau mới xong cái vè cho tôi. Ông cũng khoát tay không nhận tiền. Thấy tôi ngạc
nhiên, ông nói:
- Chú mầy là người tốt, qua không lấy tiền.
Tôi áy náy, cố kì kèo ông nhận tiền. Ông nói:
- Qua đã quyết, chú mầy về đi.
- Nhưng… sao ông biết tôi là người tốt?
Ông cười hề hề:
- Chú mầy có học, nhưng không ích kỷ. Cả xóm này ai có oan ức
đều nhờ chú mầy giúp đỡ làm đơn, chỉ đường đi khiếu nại. Không phải là người tốt
sao?
Tôi cám ơn rồi ra về, lòng băn khoăn. Quả thật mình có làm
đơn giúp bà con lối xóm, nhưng chưa bao giờ giúp cho ông Năm. Tôi chợt hiểu,
mình vì lối xóm, ông Năm vì mình. Thế mà lối xóm ai cũng bảo ông ích kỷ?
Từ đó, tôi có cái nhìn khác về ông. Có lần thấy ông vui vẻ,
tôi lân la gợi chuyện, tìm hiểu xem nguyên nhân nào tạo ra cá tính khác người của
ông. Ông không theo đạo Lão, nhưng lại sống như người ẩn cư. Chứng kiến những
việc ông làm, tôi biết ông có tính thiện, giúp người nghèo khó, lo chuyện xã hội,
nhưng không khoe khoang nên hàng xóm ít ai hiểu. Họ chỉ biết ông là người khô
khan, bỏn xẻn, bởi không có cuộc quyên góp xây chùa cất miễu nào mà ông tham
gia, thậm chí người ăn mày, thoáng thấy còn lành lặn, ông cũng từ chối.
Tôi bạo dạn hỏi:
- Ông Năm à, càng gần gũi cháu càng thấy ông dễ mến, nhưng
sao ông không cởi mở, tiếp xúc thân mật với mọi người.
- Qua già rồi, sống ở nhà cho yên thân.
- Ông không cảm thấy buồn và không sợ người ta nghĩ sai về
mình sao?
- Qua có thú vui của qua. Còn người ta muốn nghĩ sao cũng được.
Chín người mười ý, làm sao vừa lòng hết mọi người, miễn đừng làm chuyện hổ thẹn
với lương tâm là được rồi.
- Ông sống hòa mình với mọi người, cháu thấy có thiệt thòi
gì đâu, nếu không nói là có ích nữa.
- Chú em còn trẻ nên chưa hiểu hết việc đời. Thời trung niên
qua cũng có suy nghĩ như chú em vậy. Nhưng mà…
Đôi mắt ông thoáng buồn. Tôi hỏi:
- Nhưng mà sao?
- Không ai hiểu mình bằng mình đâu chú em à. Qua biết bản chất
mình thật thà, ngay thẳng, thậm chí có lúc lỗ mãng, khó mà thích nghi với cuộc
sống vốn đòi hỏi phải mềm mỏng, tế nhị, có khi phải lòn cúi, nhẫn nhục. Sự đời
nhiều việc phải trái lẫn lộn, tốt xấu chẳng biết đâu mà phân minh, con người
qua vốn không tinh tế nên chẳng thể nhìn sâu hiểu rộng, cũng không có thủ đoạn
để đối phó, nên đã nhiều lần lầm người lầm chuyện thật đáng tiếc. Qua ví dụ cho
em thấy, có người giàu sang, hay làm việc thiện, mình bái phục họ, sau mới biết
họ lừa người này gạt người nọ để có tiền có của, trích ra một chút làm phước để
an tâm lường gạt tiếp. Có người chơi chung với nhau như tri âm tri kỷ, ai ngờ
sau lưng đâm lén nhau chỉ vì danh vì lợi. Có người luôn gõ mõ tụng kinh, mở miệng
ra toàn là lời kinh ý giảng, nhưng lòng dạ nhỏ hẹp, đụng đến quyền lợi là ăn
thua đủ. Có người luôn sống hai mặt, tốt xấu như trở bàn tay, thậm chí đối với
cả người thân. Họ hay lắm, sống như một phường tuồng mà còn tự hào tự tại. Qua
dở người dở tính nên không sánh bằng ai, thôi thì rút lui để khỏi phiền người hại
mình. Qua sống không bao giờ ức hiếp người khác nên cũng không muốn ai hiếp đáp
mình. Khu vườn này là thế giới của qua, ai xâm phạm vào là không được.
- Ông nói sao nghe bi quan quá!
Ông cười:
- Bi quan hay lạc quan là do cái lòng của mình. Chú em thấy
qua tối ngày chỉ lẩn quẩn trong vườn, nhưng qua đã làm được nhiều việc hơn một
số người khác. Họ đi cùng trời cuối đất, toàn làm những việc to lớn, nhưng sự
thực là phá hại, còn vô ích hơn qua nữa.
Tôi ngồi tư lự. Ông Năm từng trải hơn tôi tưởng.
*
* *
Lễ tang ông Năm, tất nhiên là ít người đến dự, đó là luật có
qua có lại của loài ngoài. Đi vào khu vườn, tôi bỗng sững người khi thấy chú Ba
Xuổng đang cặm cụi đào huyệt cho ông Năm. Đó là cái nghĩa của kẻ nghèo. Còn những
ai đi trên con đường của ông đắp, cây cầu ông sửa sang…
TRỊNH BỬU HOÀI (tác giả giữ bản quyền)
________________________________________
ĐÓN ĐỌC BÔNG TRÀM CHUYÊN ĐỀ ĐẶC BIỆT
KỶ NIỆM 50 NĂM NGÀY MẤT NHÀ VĂN NHẤT LINH
>> Vui lòng nhấp chuột vào hình ảnh phía dưới để vào mục lục số đặc biệt <<
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét