Tôi nhận được lá thư của chị vào một buổi sáng
chớm thu, người phát thư nhìn tôi rồi mỉm cười, nói như trêu đùa.
- Chắc ở thế kỷ này, chỉ có cô còn sót lại.
- Thì thời đại bây giờ, người ta dùng thư điện tử,
hay điện thoại nói cái ào là xong, vừa nhanh vừa gọn, ai đâu rảnh
rỗi mà ngồi viết thư như thế này.
Tôi mỉm cười, cúi đầu chào bác đưa thư rồi đi vào
nhà.
Tay run run xé lá thư, dòng đầu tiên với nét chữ nghiêng nghiêng
nhưng đều tăm tắt và được viết bằng bút mực tím của học trò.
Vĩnh Phúc ngày… tháng… năm…
Phương Bắc đã bước một chân vào mùa thu, gió mùa
đang chuyển, ngồi nhìn lá rơi ngoài sân, chị nhớ Phương Nam kinh khủng,
không biết giờ này nơi ấy ra sao. Em của chị học hành thế nào rồi,
nhớ viết thư và chụp hình gửi ra cho chị nhé…
Chị viết nhiều lắm, viết đi viết lại cũng là nỗi
nhớ về nơi chị đã từng sống, từng gắn với chị như máu với thịt.
Mà chị tôi cũng lạ, khi ở miền Nam thì đau đáu ra miền Bắc, lúc ra
đất Bắc lại mong về phương Nam, có lẽ chị là con người đa đoan nên
không yên với nơi chốn của mình, lúc nào cũng mơ về một nơi xa lắm
ấy…
Gia đình tôi là người Vĩnh Phúc, cách Hà Nội không
xa mấy. Năm chị lên mười một tuổi thì bố sinh thêm tôi, nghe bố kể
thời đó khó khăn, ông phải chạy xe đạp ra đồng mua bắp cải rồi chở
ra chợ cho mẹ bán, chị một mình ở nhà chăm tôi lúc tôi mới hơn ba
tháng.
Đến năm chị lên mười ba tuổi, mẹ tôi sinh thêm một
thằng em nữa, thế là năm miệng ăn chỉ trông chờ vào mớ bắp cải mẹ
trồng ngoài vườn. Tôi khó nuôi nên phải uống thuốc, ba lại là thương
binh 2/4 nên sức khỏe của ông không ổn định, mỗi khi làm việc nặng là
ba rất mệt.
Mẹ thương ba nên cắn răng làm mọi việc, nhưng khi tôi
và đứa em út càng lớn, nhu cầu ăn uống sinh hoạt càng nhiều, quá
bức bách không còn đường xoay sở nên bố đã đưa chị Lan vào phương Nam
và gửi nhờ một người bác họ.
Trong ký ức của tôi vẫn còn lờ mờ nhớ cái đêm chị
sắp phải đi, hai chị em tôi ôm nhau trong phòng, tôi là cô bé mới năm
tuổi, tôi cầm con búp bê và đưa cho chị rồi nói.
- Nhà mình có một con búp bê này, để em chia ra cho
chị nha.
Chị cười nhìn tôi hỏi.
- Em muốn chia như thế nào.
Tôi cầm con búp bê rồi bẻ cái chân của nó ra, nhưng
chưa kịp bẻ thì chị ngăn lại.
- Thôi, bẻ ra tội nghiệp nó lắm, em cứ giữ đi.
Không biết chị có thích chơi búp bê hay không, nhưng
tôi thấy chị hay may áo quần cho con búp bê đó lắm, chỉ là những
mãnh giấy vụn thôi nhưng chị khéo léo từng mũi chỉ luồn lách thế
nào mà con búp bê của tôi được rất nhiều áo quần đẹp. Đêm đó chị ôm
tôi thật chặt rồi ngủ, mẹ đi ra đi vào, chắc trong lòng đang lo lắng
quay quắt, nên cứ thở dài, tôi nghe tiếng bước chân của mẹ cứ nằng
nặng trong đêm…
Cồn Ông Trang thuộc Tỉnh Càu Mau đón chị và bố tôi
với bạt ngàn Dừa nước, cây Mắm và rừng Đước. Bố đưa chị đến nhà
một người thân là bác Quế, gửi gắm dăm ba lời rồi loay hoay ra về
ngay trong ngày, bố không dám nấn ná lại lâu thêm vì sợ sẽ yếu lòng
mà thay đổi ý định… Kể từ đó, cuộc đời của chị thay đổi. Chị bắt
đầu những tháng ngày vất vả đấu tranh để vươn lên và đôi lúc là bảo
vệ chính bản thân mình.
Bác Quế lúc ấy đang là Viện trưởng kiểm lâm của
huyện Ngọc Hiển, bản chất ông sống cần kiệm liêm chính, nên được
lòng nhiều người nhưng kẻ thù thì cũng không ít. Chị được bác đưa
vào lâm trường để phụ việc cơm nước cho công nhân cán bộ ở đây.
Thân gái một mình, chị vừa cô đơn vừa lo lắng, những
ngày đầu mới đến, đêm xuống nghe tiếng lá rừng xào xạc, cộng với
tiếng côn trùng ngày đêm rỉ rả, chị đã tuôn rơi nước mắt nhớ về bố
mẹ và các em, nhưng bản thân chị luôn tự nhủ mình phải vượt lên để
còn giúp gia đình.
Mấy anh cán bộ họp sức làm cho chị cái lán ở cạnh
lâm trường, đêm xuống chị vào đó mà ngủ, mặc dù biết cán bộ là
những người nghiêm túc, nhưng đâu đó chị vẫn lo sợ cái việc mơ hồ,
mỗi đêm chị thủ sẵn bên mình một con dao nhỏ để phòng thân.
Khi lớn hơn một chút đi học và biết chữ cũng là
lúc tôi tập tành viết thư cho chị, từ phương Bắc gửi đến phương Nam
những nét chữ run rẩy học trò. Bố và mẹ tôi không biết chữ nhưng
mỗi lần nhận được thư thì như có linh cảm, mẹ biết ngay đó là thư
của chị và thế là sau bữa ăn tối, cả nhà tôi xúm lại đọc thư chị.
Lâm trường kết hợp với phòng giáo dục huyện mở lớp
dạy để bổ túc văn hóa cho các cán bộ, chị thấy các anh đi học vào
mỗi buổi tối, thế là xin ông Quế cho được học cùng. Ban đầu có khó
khăn cho chị một chút trong việc làm quen lại với sách vở, mỗi đêm
xuống, ngọn đèn vàng cứ sáng cho đến khi trời tờ mờ sương sớm chị
mới tắt đèn đi ngủ. Mấy anh cán bộ thấy thương, không làm khó, có
người để ý thương chị nhưng trong lòng chị lúc ấy chẳng nghĩ đến
chuyện tình cảm, mối quan tâm lớn nhất của chị lúc này là làm sao
để thay đổi cuộc sống của gia đình.
Buổi trưa, khi chị đang loay hoay dọn mớ chén bát thì
anh Quân, một cán bộ ở lâm trường đã để ý chị từ lâu, anh lân la lại
gần rồi lúng túng gọi chị.
Chị quay người, ngạc nhiên khi thấy anh đứng cạnh
mình từ lúc nào.
- Dạ! Anh gọi em có gì không ạ?
Anh xòe bàn tay ra và trong đó có một cái kẹp tóc
màu trắng, hình bông cúc rồi anh mỉm cười.
Chị tần ngần một lúc, không dám nhận, chị nhìn anh
bối rối.
- Sao vậy, không thích hả?
Chị có mái tóc dài chấm mông lúc nào cũng bối cao
gọn gàng để lộ cái cổ trắng tinh của con gái xứ Bắc. Cái kẹp của
anh là món quà xa xỉ đối với chị vì từ bé đến lớn chị chưa bao
giờ mua một món đồ trang điểm nào cho bản thân mình, đơn giản vì ăn
còn không có lấy gì để làm đẹp.
- Sao tự nhiên anh lại tặng cho em vậy?
- Anh ra đi lên thị xã công tác, thấy nó đẹp anh lỡ
mua rồi, giờ em không nhận thì anh quăng nó xuống sông.
Chị bật cười và đưa tay cầm lái cái kẹp xỉa ngang
trên tóc mái của mình. Mấy ngày sau đó anh cũng mon men lại gần,
nhiều lúc muốn trao cho chị tình cảm nhưng cứ thấy chị dửng dưng, nên
anh cũng ngại. Sau này, anh phát hiện dường như chị lảng tránh cái
ánh nhìn của anh, không nỡ làm chị khó xử, anh đành im lặng chờ
đợi, và cái sự im lặng đó kéo dài, kéo dài như cánh rừng Đước mênh
mông này…
Hết lớp bổ túc 12, chị xin ông Quế cho chị lên tỉnh
Bạc liêu thi cao đẳng sư phạm, ban đầu ông cũng lo lắng, nhưng sau nhiều
đêm đắn đo, thì ông Quế nghĩ nên giúp chị thực hiện những hoài bão
của mình và thế là chị khăn gói lên tỉnh.
Những năm đó, sư phạm là một ngành không phải tốn tiền
học mà còn lại có lương cho giáo sinh hàng tháng nên chị quyết định
thi vào trường này, nhưng sợ sức học của mình không bằng người khác,
nên chị chọn ngành mà ít người nộp hồ sơ là Anh Văn, may mắn đã mỉm
cười với chị. Hình như đất Phương Nam luôn mở rộng lòng đón chị.
Tôi thấy cánh thư của chị gửi về đã có nhiều màu
sắc, lấp lánh những niềm vui. Chị kể về khoảng thời gian chị vào
được cao đẳng, những niềm vui và những trăn trở. Ở phương Bắc, bố mẹ
tôi cũng vui mừng, bố tôi thường khuyên chị cô gắng học ở nhà mọi
việc vẫn ổn.
Rồi một ngày kia, tôi thấy thư của chị viết về dài
hơn, chị khoe chị có người yêu, một người đã từng có vợ và đã ly
hôn. Tôi đọc thư cho bố mẹ nghe mà lòng lo lắng, đến chữ cuối cùng
của bức thư, chị xin bố mẹ hãy chấp nhận việc đó. Mấy hôm sau, tôi
thấy bố cứ dùng đằng đòi vào miền Nam nhưng mẹ lại cản, thư đi thư
lại, biết bao lời khuyên nhủ của bố mẹ nhưng chị vẫn cương quyết,
bất lực, bố tuyên bố từ con.
Thư về tôi thấy dòng chữ chị nhòe nhòe trong nước
mắt, bố quát tôi.
- Từ nay tao cấm mày không được đọc thư của con Lan
nữa…
Thế là từ công khai, hai chị em tôi chuyển sang “thư
mật”, tôi âm thầm kể về tình hình của bố mẹ cho chị nghe. Chị ra
trường, xin về huyện Trần Văn Thời dạy, tháng lương đầu tiên chị mua
cho tôi một chiếc áo dài trắng tinh, mua cho mẹ một cái áo ấm, thuốc
bổ cho bố và đủ thứ…
Đến hôm không thấy thư của chị nữa mà thấy một
chiếc thiệp hồng, chị báo là sẽ lấy chồng dù bố có ngăn cản. Tôi
đem tấm thiệp đưa bố, dù sao tôi cũng phải nói cho bố biết. Đêm đó
bố ngồi giữa sân hút thuốc lào, lâu lắm rồi tôi mới thấy bố hút
thuốc và trầm ngâm suy nghĩ nhiều như vậy, sáng hôm sau, bố bắt tuyến
xe Bắc Nam vào để để mừng đám cưới của chị…
Chị khóc, khóc rất nhiều trong ngày cưới. Quà mừng
con gái đi lấy chồng chỉ vỏn vẹn một trăm ngàn, nhưng chị khóc không
vì điều đó mà vì dẫu con gái có làm gì đi nữa, thì chị hiểu tình
thương của người cha vẫn dành cho con trọn vẹn. Bố tôi vẫn thế, vẫn
đi và về ngay trong ngày như cái hôm ông bỏ lại chị tôi ở nhà bác
Quế.
Tôi thông báo với chị qua thư : “Em đậu đại học rồi,
em sẽ vào Sài Gòn học…”. Chị hớn hở gửi tiền ra cho tôi mua vé tàu
vào miền Nam, và cứ hàng tháng, chị thay cha mẹ gửi cho tôi tiền ăn
học, khi có thời gian rảnh là tôi đón xe đò về Cà Mau thăm vợ chồng
chị.
Tôi vào Sài gòn học, thằng Út cũng đòi vào theo,
bố mẹ tôi càng ngày càng già yếu, chị lại lo bố mẹ sống một mình
không người chăm sóc, chị xin chồng chuyển về quê hương, cũng may anh
gốc ở Vĩnh Phúc nên việc cả anh và chị chuyển công tác về quê không
có gì khó khăn, vậy là một lần nữa chị lại bước đi, bỏ lại niềm
Nam trong nỗi nhớ…
Gấp bức thư của chị lại, mắt tôi cay cay, có lẽ tôi
đang là chị những ngày xưa ấy, nhưng tôi may mắn hơn là không phải bôn
ba, vất vả như chị Lan. Anh chị đã có đứa con đầu lòng, hai người
đặt tên cháu là Phương Nam, để nhắc nhở con về nơi mà cha mẹ đã gặp
và cưới nhau với bao kỷ niệm.
Chị vẫn viết thư dặn tôi thỉnh thoảng hãy xuống Cà
Mau thăm nhà ông Quế giúp chị, và hãy chụp lại cho chị cảnh vật nơi
ấy để chị đỡ nhớ niềm Nam.
Tôi lục xấp giấy tập, cầm cây bút mực và bắt đầu
từng nét chữ gửi chị.
Phương Nam gửi miền
Bắc chút nắng vàng ấm áp…
Em mới đi xe máy
cùng bạn bè về Cà Mau, tuy vất vả và khá xa, nhưng được ngắm cảnh
đẹp và chân quê thật thích chị ạ. Phương Nam ngày nay đã có nhiều
thay đổi, cầu Cần Thơ đã bắc nhịp qua sông Hậu, những con đường trải
nhựa đã nối qua cánh rừng Đước chạy đến tận Đất Mũi, như đón chào
những người thân yêu trở về…
MINH VY (tác giả giữ bản quyền)
_____________________________
ĐÓN ĐỌC BÔNG TRÀM CHUYÊN ĐỀ ĐẶC BIỆT
BA MÙA NGÁT HƯƠNG (3/1/2011 - 3/1/2014)
>> Vui lòng nhấp chuột vào hình ảnh phía dưới để vào mục lục số đặc biệt <<
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét