Từng ngày qua đau đáu trái tim
nhàu
Có lẽ nào con sông quê thuở ấy
Bàng bạc trôi viễn xứ chở niềm
đau.
Có lẽ nào hoàng hôn chênh chếch
bóng
Nghiêng nghiêng đêm mộng mị đến
nao lòng
Có lẽ nào lá vàng rơi thật khẽ
Mây biết buồn và sao cũng bâng
khuâng.
Có lẽ nào nắng tàn phai trước ngõ
Bóng trưa hè thảng thốt nén niềm
đau
Có lẽ nào bài thơ tình dang dở
Gió ru hời hạt nắng cũng xôn xao…
Thảo luận về bài thơ “Có lẽ nào”
của Hoài Huyền Thanh nhà thơ Đan Thụy đã viết như sau: “Câu thơ dản dị, nhẹ
nhàng, thanh thoát nhưng cho ta những dấu hỏi thật lớn, càng suy nghĩ càng nao
lòng”. Quả vậy, vì những dấu hỏi đó tác giả lại đem đặt đàng sau những câu khẳn
định, hay đúng ra hỏi về những điều mà mọi người đã từng nếm trải trong cuộc
sống trần gian. Bài thơ có liên tục những câu hỏi, dồn đập những câu hỏi, thắc
mắc về những điều phi lý xảy ra trong cuộc đời, có tác dụng khơi dậy những niềm
đau của thân phận kiếp người đã hằn sâu trong tâm khảm, được ngụy trang bằng
những niềm vui tạm bợ giữa trần gian. Cái chữ “nao lòng” mà nhà thơ Đan Thụy đã
dùng là ý thức được nỗi đau đứng bên bờ vực thẳm mà sự đen tối phía dưới kia
không bao giở giải được. Hãy nao lòng vì
sự chết đã được dùng ngay trong vế nhập đề:
Có lẽ nào ngày mai không còn nữa
Trời thêm xa và đất lại thật gần
Có lẽ nào chốn trầm luân cõi tạm
Nẻo nào xa còn lưu luyến phân
vân.
“ Có lẽ nào” không đánh dấu hỏi phía
sau là tiếng kêu thảng thốt, ta thán, trách móc về lẽ vô thường và nỗi đau dằn
vặt trong ý thức con người về sự vô lý
cứ yêu thương, lưu luyến nó. Bốn câu thơ nầy hoàn toàn đem triết lý nhà
Phật vào thơ nhưng nó không giải thích triết lý mà đặt ra thành nan đề cho
người đọc thơ suy nghiệm. Và rồi từ sự suy nghiêm ấy con người sẽ thấy ngõ cụt
của vấn đề, để con người càng ưu tư đến độ phải cùng nhà thơ thốt lên lời than
thở “Nẻo nào xa còn lưu luyên phân vân”. Chữ “Có lẽ nào” ở đây nhắc chúng ta liên
nghĩ đến có lẽ ngày xưa thái tử Tất - Đạt - Đa cũng vì ba chữ nầy mà rời bỏ
hoàng cung đi tìm con đường giải thoát. Tất - Đạt - Đa thành Phật nhưng ta thì
vẫn còn “trầm luân cõi tạm” nên cũng trầm luân trong câu hỏi “có lẽ nào” kia.
Bốn câu thơ cho ta hiểu thêm về “khổ đế” trong triết lý nhà Phật không bằng suy
luận của lý trí mà bằng cảm xúc của tâm hồn.
Ở vế thứ hai nhà thơ Hoài Huyền
Thanh cởi bỏ đi chiếc áo đóng vai tu sĩ, lộ nguyên hình một nhà thơ với những
yếu đuối trong tâm hồn, rung động đến từ mong manh của sợi khói đến niềm đau
trôi dạt trên con sông quê:
Có lẽ nào từ mong manh sợi khói
Từng ngày qua đau đáu trái tim
nhàu
Có lẽ nào con sông quê thuở ấy
Bàng bạc trôi viễn xứ chở niềm
đau.
“Có lẽ nào” bây giờ không hỏi về
điều cao trọng của kiếp nhân sinh mà hỏi về điều thầm lặng dơn sơ xảy ra trong
lòng người nhưng nó cũng nặng nề không khác chi những điều cao trọng. Sợi khói
lại đau đáu nằm trong trái tim. Con sông quê mà lại chở niềm đau, nghĩa là con
sông ấy với hình ảnh của nó cũng đang trôi hoài trong trái tim tác giả. Tác giả
ý niệm về kỷ niệm đời người mong manh như sợi khói nhưng nó lại không tan biến
đi mà hằn sâu trong trí nhớ, đáu đáu ở trong tim. Sự mong manh trở thành bền
vững và sự bền vững chất chứa cái mong manh trong ý thơ làm cho con người như
biến thành sợi khói bay về vùng trời kỷ niệm. Bởi đó mà sự “Bàng bạc trôi về
viễn xứ chở niềm đau”cũng xảy ra trong lòng người khi đọc thơ của tác giả.
Qua vế thứ ba nỗi khắc khỏi về sự
tàn phai, về sự tận cùng, về sự lâm chung của ngày như sự lâm chung của cuộc
đời cứ bâng khuâng trong lòng tác giả . Nỗi buồn muôn thưở ấy được diễn tả bằng
lời thơ trầm xuống như những tiếng thở dài não nuột nối theo nhau:
Có lẽ nào hoàng hôn chênh chếch
bóng
Nghiêng nghiêng đêm mộng mị đến
nao lòng
Có lẽ nào lá vàng rơi thật khẽ
Mây biết buồn và sao cũng bâng
khuâng.
Hoàng hôn chếch bóng là nan đề,
đêm mộng mị là nan đề, lá vàng rơi là nan đề, mây cũng là nan đề, tất cả mọi
biến động trong không gian, trong thời gian, trong vạn vật đều mang nan đề biến
thành nỗi ưu tư trong lòng tác giả. “Có lẽ nào” bây giờ là dấu hỏi cho những
điều xảy ra trước mắt, những điều mà cái nhìn làm cho cuộc đời trở nên bi quan
yếm thế. Tất cả cảnh trong thơ đều mang tâm trạng con người cho nên thơ đã lồng
được cái cao rộng của hồn người vào chung cùng vạn vật.
Ở vế chót bài thơ, điều chủ yếu nén sâu trong lòng tác giả đến bây giờ
mới được thốt lên. Đó là tình yêu, thứ mà chỉ một mình nó đã làm cho trời đất,
muôn vật quay cuồng:
Có lẽ nào nắng tàn phai trước ngõ
Bóng trưa hè thảng thốt nén niềm
đau
Có lẽ nào bài thơ tình dang dở
Gió ru hời hạt nắng cũng xôn xao…
Cả bài thơ sẽ không thành hình
nếu “bài thơ tình” không dang dở. “Bài thơ tình dang dở’ là mấu chót của bài
thơ “Có lẽ nào”, là điều kéo theo những trải nghiệm cuộc đời dưới đôi mắt bi
quan, là điều trung tâm cho ý nghĩa của bài thơ. “Bài thơ tình dang dở” làm cho toàn bộ bài thơ đau đáu nỗi suy tư bi
luỵ về cuộc đời trở nên lảng mạn, làm cho bài thơ triết lý khô khan trở nên trử
tình, khiến người đọc thơ đương ở trong thế giới sầu bước qua thế giới của mộng mơ. Tác giả
thật khéo léo khi đem cả luật vô thường, đời người, quê hương đưa con người lên
đến đích đỉnh cao để cùng với mình buông tiếng thở dài hoài niệm tình yêu .
Thơ Hoài Huyền Thanh khi nào cũng là sự trầm lắng chất chưa suy tư và kỷ
niệm. Tiếng thơ Hoài Huyền Thanh dầu bắng những câu từ ngắn gọn, thoảng như cơn
gió bay qua song cửa hay dài bằng những vế thơ nối tiếp cũng đều đem đến hồn ta
sự bâng khuâng của hoài niệm, sự man mác của tình yêu, sự vương vấn trong suy
nghiệm và sự khoan khoái khi thấy một tâm hồn nên thơ trải đều thanh âm trên
bình diện cả bài thơ ./.
CHÂU THẠCH (tác giả giữ bản quyền)
___________________________________
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét