Giằng nịt thật chặt túi đạm lên
chiếc xe nữ cà tàng, khô xích, mẹ ngoảnh đầu vào bếp, chỗ tôi đang ngồi cắt tai
cà, bổ đôi để tối nay nhờ bà Mừng sang muối hộ, mẹ nói:
- Hễ có mưa thì gom quần áo
trên sào phơi xuống.
- Vâng.
Chữ “vâng” tròn vạnh và gọn đeo.
Tôi dáo mắt đuổi theo bóng mẹ khi đã khuất sau cây dừa đầu ngõ, tôi chạy vào
kéo ngăn tủ, lấy ra bộ váy đỏ. Cổ váy kín và gấp nếp kiểu tôi thường thấy trong
những bộ phim Hàn Quốc. Viền cổ bằng ren trắng, eo váy cho ba chiếc nơ nhỏ nhỏ,
xinh xắn được điểm xuyết nhẹ nhàng. Đó là món quà ba gửi từ Quảng Ninh về cho
tôi trước ngày sinh nhật lần thứ Mười Sáu. Mẹ dặn, đến hôm đó, hái ổi, na trong
vườn, mua vài gói kẹo dồi và kẹo lạc, làm một buổi sinh nhật nhỏ, thì mới được
mặc váy. Tôi phụng phịu: “Không có bánh kem hả mẹ?”. Mẹ chao chát “Bánh kem đắt,
mà ăn có ra gì đâu?” “Nhưng ba dặn phải mua còn gì?”. “Bảo ba mày về mà mua.”
Cuộc đời của ba gắn với những
chuyến đi xa, có khi đi biệt ba, bốn năm mới trở về cái xóm nghèo lay lắt này.
Ba bảo tuổi ba tuổi ngựa, phải rông ruổi giữa cuộc đời lớn. Có lần mẹ ốm, nội
mang qua bát cháo gà. Từ gian bếp, tôi nghe tiếng nội sụt sùi, khản khô:
- Cái thằng chết người đó,
đi ba mươi năm rồi mà vẫn còn đi nữa. Biết thế sao nó còn lấy vợ làm gì cho khổ
vợ khổ con.
- Khi nào anh ấy chồn chân mỏi
bước, còn có chốn đi về. Con và cháu, nguyện làm bến đỗ của anh ấy, mẹ ạ.
Giọng mẹ thều thào, chùng xuống.
Tôi thường ít có chuyện để kể về ba với bạn bè, ngoài dăm bảy mẫu vụn về những
chiếc kẹo đắng đen kịt ba lấy ra từ chiếc ba lô nâu, hay gói kẹo dừa dai điếng,
đến nỗi chia cho mấy đứa nhỏ gần nhà, đứa nào đứa nấy nhai mà nước dãi cứ thòng
lòng xuống cổ áo. Mười sáu năm, tôi gặp ba bảy lần. Có những lần về ba đã có sẵn
một vé tàu ngày đi trong túi áo, một sự quyết định sẵn có trước khi trở về, như
tôi và mẹ chẳng có sức níu giữ ba thêm một giây phút nào khác. Một chú ngựa
thèm khát những con đường dài rộng trải đầy hoa thơm, cỏ lạ. Một chú ngựa kiên
định. Ngay cả khi mẹ giả bệnh, nằm lì trên giường cả buổi không dậy để níu kéo
ba thêm một ngày, ba vẫn hôn lên trán mẹ, rồi đi. Mẹ hờn dỗi né tránh nụ hôn của
ba. Mẹ hậm hực không buồn tiễn ba ra ga tàu. Không ngoa nghéo, chao chát như
cách mẹ vẫn la rầy tôi hằng ngày hay chửi ông ổng con bò nhà nào vô phúc vào
phá vườn ngô đương lúc trổ hoa của mẹ. Dường như có một sự chấp nhận, từ khi mẹ
kí vào tờ giấy kết hôn. Ba băng qua con đường rải sỏi nâu thẳm, hai bên là vạt
lúa xanh rờn, qua một con mương chạy dọc thẳng ra đường ray. Tôi đuổi men theo
những vệt đường in dấu chân ba, ba vừa kịp bám lên khoang tàu, nghe tiếng tôi gọi,
ba xuống vội. Ba bố thốc tôi lên, tôi hôn ngấu nghiến vào những vết rỗ của dấu
tích thời gian và những con đường bụi phủi, nắng quái.
- Ba đừng đi mà ba.
Những người đã yên vị trên khoang
tàu, kéo tấm cửa sắt ken ô dày đặc lên chăm chú nhìn cha con tôi. Ba đặt tôi xuống,
vuốt mái tóc nhẹ như mây của tôi:
- Con gái còn nhớ con gái tuổi
gì nào?
- Con tuổi ngựa. – Tôi mếu
máo.
- Sau này con có muốn đi như
ba không?
- Con cũng đi thì mẹ ở với
ai. – Tôi nín hẳn, mắt ngân ngấn nước hỏi ba.
Ba im lặng một hồi, đôi mắt đăm
chiêu. Tiếng còi tàu dội tới. Mắt ba long lanh, gợn sáng.
- Ba phải đi rồi, con gái.
Tôi lạc lõng giữa một vùng cỏ lau
xanh xám, ảm đạm. Những ánh mắt vẫn đuổi theo tôi mang nỗi thương vay cho đến
khi đoàn tàu xa hẳn.
Có những lần ba về, và đi không hẹn
trước. Khi tiếng còi tàu rít lên, tờ mờ sáng còn yên tĩnh, càng kéo theo gió vọng
vào. Tôi choàng mở mắt, chờn vờn cảm giác như ai vừa hôn lên trán. Nghe tiếng mẹ
sụt sùi bên trong, tôi chơt hiểu là ba đã đi. Ba đi đâu, mẹ con tôi đều không
hay biết. Cuộc đời nay đây mai đó, có thú vui gì mà ba mải mê đến vậy. Có khi
nào ba quên lối về từ sân ga có những rậm cỏ lau xanh xám, đìu hiu đến con đường
rải sỏi, và cây dừa trước ngõ. Có khi nào trong phút ngơi nghỉ dừng chân tạm
quán bên đường, ba nghĩ về mẹ con tôi vẫn bận bịu nỗi ưu phiền trắc trở cho người
đi xa?
Tôi không được ba vuốt những cái
xương dừa uốn dẻo, để làm diều như thằng Chinh. Không đi được đeo bên hông chiếc
giỏ đan, để háo hức nhặt nhạnh những con cá, con tôm, sau một mẻ chài như cái
Quỳnh. Không được ba lắp xích xe đạp mỗi khi bị tuột. Mà xe của tôi có hộp xích
bao quanh, mấy lần xin mẹ tháo ra hẳn, để nhỡ tuột xích tôi còn lắp được. Mẹ
quyết không chịu, bởi không có hộp xích che chắn, mẹ sợ ống quần tôi mắc vào
xích thì nguy hiểm lắm, hay đạp xe không khéo, dễ quệt nhầy nhụa dầu xích đen
thủi vào quần. Nhưng mỗi lần sang nhờ ba cái Miền dùng tô vít vặn những chiếc ốc
nhỏ để tháo hộp xích ra, mắt tôi lại ậng nước, ấm ức. Từ dạo ấy, hình ảnh ba trở
về từ chuyến tàu cứ dồn đuổi những giấc mơ tôi.
***
Tôi mặc chiếc váy, ngắm mình qua
chiếc gương tròn bé tẹo, mặt sau dán ảnh ca sĩ Hồng Nhung. Từ cổ xuống dưới
chân là nàng công chúa trong bộ váy đỏ, chỉ có gương mặt là thô mộc, mái tóc mềm
nhưng vàng hoe hoét như màu của liếp rơm phơi khô cong nắng. Đến khi cởi ra, mắt
tôi giàn giụa nước, nhìn thấy mủ cà đã ố nâu sạm trên thân váy. Chẳng phải vì sợ
lời chao chát của mẹ, mà vì tôi tiếc rưng rức món quà của ba.
Sinh nhật của tôi vào ngày bão.
Cơn bão số 8 quang quật cả những tàu dừa đổ xiêu vẹo, nổi lềnh phềnh trên mặt
ao nước đầy. Ngọn nến vừa cháy đã bị xô tạt bởi cơn gió mạnh. Nến sinh nhật
không được cắm vào chiếc bánh kem. Mẹ úp chiếc đĩa xuống, cắm lên nó một cây nến
tượng trưng. Sinh nhật chỉ có mẹ và tôi. Mẹ ra cài then cửa thật chặt, để chắn
gió. Cây nến sáng, mẹ bảo:
- Ước gì thì ước nhanh lên,
kẻo lại tắt mất.
Tôi vội vàng nhắm mắt. Điều ước
thuộc về ba. Tôi thổi vào ngọn nến nhỏ bé mong ước nhỏ nhoi chuyến đi của ba
bình an, mạnh khỏe và một ngày sớm nhất, ba sẽ trở về bên mẹ con tôi. Có một ngọn
nến, mà hình như tôi tham lam, ước đến hai điều. Như một dự cảm, rằng sẽ rất
lâu, khi ba không còn đủ sức để đi, ba mới trở về.
***
Tôi tuổi Ngựa. Ba hơn tôi hai
giáp. Có nghĩa là, khi tôi chào đời, ba hai tư. Tôi thi đỗ vào một khoa văn
trên thành phố. Thầy giáo chủ nhiệm yêu cầu học trò năng đi để trải nghiệm cuộc
sống, cho cây bút thêm dày dặn. Tôi bắt đầu đi từ đó. Ba lô trong những chuyến
đi của tôi luôn nặng vai bởi một câu hỏi của ba bên bờ lau xám ngày ấy:“Sau này
con có muốn đi như ba không?”. Tôi tuổi Ngựa. Và nghiễm nhiên tôi cho phép mình
rong ruổi để xứng là con gái tuổi Ngựa. Những cuộc gọi về cho mẹ thưa dần, dăm
ba câu chuyện mẹ kể chuyện ở xóm nghèo không còn thú vị. Những điều gần gũi bỗng
hóa xa xôi. Tôi sợ những câu chuyện tủn mủn, trần trụi đời thường của mẹ là ngầu
đục đi chất thơ phiêu bồng nhặt nhạnh trên những miền đất lạ.
Tôi về thăm nhà vào một mùa ngâu
lạnh se. Sào phơi đã cũ, và mái nhà lấm tấm dột. Ông Đào qua, bàn giao sổ sách
nông dân với mẹ, nhấp ngụm trà xanh đặc quéo, liền bảo:
- Chiều mang cái rổ qua mà lấy
bòng bòng cháu ạ.
- Vâng, cảm ơn bác.
Giọng tôi lạnh teo. Ngày tôi còn
be bé, mùa ngâu nào cũng quẩn quanh trước cổng nhà ông chỉ để xin bòng bòng. Mà
hiếm lắm ông mới cho, đã cho rồi mà ông còn khè khựa ở gần chỗ gốc cây, nhắc mà
như đuổi. “Lấy vừa phải thôi để còn có cái cho chị Hợp trông nhà”. Mỗi bận
về quê, cứ ra đầu ngõ là thấy chị Hợp. Chị ú ớ gọi tôi là chị Hằng, chị Hằng. Đến
cả con bé mới mười hai tuổi, chị cũng gọi là chị. Chị mắc bệnh gì, tôi không
rõ, chỉ biết là khù khờ, không lớn được, mà chạy cũng không nổi. Lần này về, tôi
hai sáu tuổi, và đổi khác. Tôi không còn thấy lay cảm trước sự tội nghiệp của
chị Hợp như xưa. Khác với ngày nhỏ vẫn thường dỗ chị khi chị bị lũ con nít chọc
phá, thì tôi chỉ quát chúng dăm bảy câu, đợi chúng đi khuất rồi, thì tôi cũng
bước thẳng. Tôi có cảm giác như ai đó đang dõi theo mình, hình như là chị Hợp.
Tôi ngoảnh lại, cố nở nụ cười với chị. Có phần lạ lẫm, chị Hợp nhìn tôi không
chớp mắt.
Đợi ông Đào ra về, tôi gắt mẹ:
- Mẹ chưa hết bận bịu hay
sao mà còn nhận làm tổ phó nông dân?
- Ở nhà buồn tay buồn chân,
mẹ làm cho vui.
Cổ họng mẹ như mắc ở chữ “vui”,
trũng xuống, mà ngân dài. Hai vai tôi bủn rủn, mỏi nhừ lúc gặp chữ “vui” ấy.
Giấc trưa hôm đó, tôi mộng mị về
hình ảnh ba bước lên chuyến tàu đi về miền xa xôi, cái cảm giác lạc lõng và chới
với rợp lòng ùa về cả khi đã tỉnh dậy. Có lẽ đó là lý do chưa một lần nào mẹ tiễn
ba hay tôi ra ga tàu. Những người đi thường an tâm về người ở lại, tôi không là
ngoại lệ. Nhưng người ở lại luôn canh cánh mối lo, hàng đêm vẫn giật mình những
giấc nông sâu.
Tôi vò nát những bản thảo viết
trên những chặng đi của mình. Non ương và chín ép. Dường như tôi mới chỉ
chạm vào đường viền mỏng tang và mờ nhạt của những mảnh đất tôi từng đi qua như
quán trọ ven đường chưa đủ thấu. Sửa đi sửa lại không tìm thấy được hơi thở.
Mẹ ngủ, xoay người về phía tôi,
ôm ngang bụng tôi. Hơi thở ấm nóng phả vào gáy tôi, quen thuộc như thứ mùi đâu
đó vẫn theo gió quấn quýt chân tôi trên những nẻo đường mờ sương. Tiếng chó sủa
ran ăng ẳng ngoài ngõ.
- Mẹ không chốt cửa cổng à?
Nhỡ trộm vào thì sao?
- Mẹ quen rồi. Nhỡ đâu ba
mày với mày đi tàu đêm về bất ngờ, thì biết ngủ ở đâu.
Câu nói của mẹ nhẹ như hơi thở,
mà tôi thấy giận mình ghê gớm. Cánh cổng nhà không bao giờ khép, như cách mẹ
luôn mở lòng để đón cha con tôi trở về khi chồn chân mỏi gối. Tôi nén tiếng thở
dài ở lồng ngực. May mà vẫn có mẹ, là nẻo về bình yên…
DƯƠNG HẰNG (tác giả giữ bản quyền)
____________________________________
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét