Thử hình dung vùng đất phương Nam bao la, phì nhiêu màu mỡ bây giờ và
nghe lại, xem lại những lời truyền khẩu, những ghi chép giản dị mà súc tích về
cuộc đấu tranh mở đất và sinh tồn của ông cha ta đôi ba trăm năm về trước, thật
khó mà cảm nhận dù chỉ một phần gian khổ ấy. Câu chuyện này không phải là biên
khảo, tra cứu chi tiết thực hư, chỉ là thu thập nối tiếp từ những chuyện giống
như truyền thuyết cần lưu giữ.
Từ quyển “Gò Công cảnh cũ người xưa” của cụ Việt
Cúc, một thầy thuốc, một nhân sĩ đáng kính thuộc dòng tộc lâu đời ở Gò Công và
lời kể thêm của những vị cao tuối sống miệt Bình Thành, Bình Xuân, Tân Trung…
(thuộc Gò Công - Tiền Giang) mà thêm thắt vào đây.
Thuở xưa, quãng đường từ Chợ Lớn về tới Cần Đước khoảng năm chục cây số
đã là gian nan lắm. Những lúc quan viên cần đi lại, giấy tờ công văn cấp bách…
phải dàn lính tráng sắp đặt mở đường và phòng ngừa cướp bóc liều lĩnh hoành
hành. Lặn lội đường xa diệu vợi, hành trang nặng trĩu trên lưng, chỉ nhờ vào
đôi chân cứng cáp, dẻo dai, đi và về có nhanh cũng mất hơn nửa tháng trời. Sợ nhất
là khi vượt sông Bao Ngược, thông thương hai dòng nước sông Vàm Cỏ và sông Soài
Rạp đẻ vào địa phận Gò Công, vùng hoang vu nê địa mới mẻ đầy bất trắc. Hãi hùng
sóng to gió lớn, lòng lạch sâu, nước chảy mạnh… cho nên tai nạn ghe thuyền là
thường xuyên. Sắp qua sông thì khách thương hồ bày cúng cầu may, qua rồi cúng
một mâm tạ lễ. Có câu hò xưa nghe rất đoạn trường “Anh đi chuyến gạo Gò Công / Anh về Bao Ngược bị giông đứt buồm… / Anh
ơi / Thuyền anh cao nhưng sóng cả nhận chìm / Em trông sông bao nhiêu khúc… nỗi
niềm ruột đau…hò ơ…”. Phía bên kia sông thuộc về Gò Công, miệt Bình Xuân,
Bình Thành toàn rừng và rạch, không cây to chớn chở như miền trên, chỉ lùm bụi
cây lúp xúp nhưng chằng chịt um tùm. Những con rạch nhỏ như rạch Rô, rạch Lá,
rạch Băng… nối liền nhau và ăn thông ra sông Tra, Rạch hẩm sâu, tăm tối bởi tàn
lá dừa nước xum xuê ken dày cùng cây hoang dại che lấp hai bên bờ. Đây cũng là
lãnh địa của cá sấu, chúng ngang dọc tung hoành bắt thú, bắt người ăn thịt. Có
một anh gốc người Cà Mau vì thời thế sao đó mà chống xuồng cùng đứa con trai
chừng sáu tuổi về cất chòi bên đoạn rạch Rô, lần hồi đốn củi đổi gạo. Sơ sẩy,
đứa nhỏ bị sấu bắt lặn chìm mất, người ta thấy mà không biết làm sao cứu kịp,
kêu trời đề quyết là con sấu mũi đỏ hung dữ nhất bầy. Người cha không khóc,
ngày đêm cặm cụi mài mác dài, mác ngắn, đánh bện dây thừng, dây chão, không ai
biết làm chi. Ba ngày sau, đầu đứa nhỏ lam nham tấp mé, anh bọc áo ôm vào lòng
rớt nước mắt một hồi rồi đem chôn. Gần một tháng trời, anh theo dõi thói quen
kiếm ăn của bầy sấu, chú ý nhất là con mũi đỏ. Tối nọ, bạn làm nghề nghe tiếng
vẫy vùng ngoài rạch liền đốt đuốc, vác rìu, xách chỉa ra xem. Một vùng nước ngầu
bọt xoáy, cuộc đấu tranh sinh tử đang diễn ra. Anh người Cà Mau bám chặt mình
con sấu lớn đã bị trói hai chân trước, trồi lên hụp xuống giữa ánh đuốc cùng
tiếng hò la trợ lực. Lúc lâu sau thì im lặng, anh ta gắng lết vô bờ rồi ngất
xỉu. Đám bạn lớp lo hơ ấm, xoa bóp thuốc rượu cho anh, lớp hì hục cột dây kéo
con sấu mũi đỏ về nơi lều trại. Sáng ra, mọi người lột da xẻ thịt con sấu, còn
anh giết sấu chỉ hứng chén máu ra rưới lên mả con trai, đốt nén nhang khấn vái.
Uống cùng anh em ly rượu, anh bùi ngùi chia số củi đã đốn cho anh em rồi từ
giã, chẳng ai biết người cha thương con và đầy lòng can đảm kia sẽ trôi giạt về
đâu?
Lại có chuyện ngôi miễu xưa bên kia rạch Gò Công còn di tích cái vỏ lúa
trông tựa vỏ trái bầu khô, màu xám mốc, tồn tại gần hai trăm năm. Tới chuyện
con cá bống mú lớn đào hang mé rạch, bề hoành ước chừng nhỉnh hơn cái mái chứa
nước, gặp người sơ ý là táp nuốt luôn. May mà một thời gian sau nó bỏ đi mất,
ông già bà lão cho rằng nó theo hang thông ra sông lớn, biển rộng. Dưới sông,
dưới rạch là vậy, còn trên bờ thì nạn tai rình rập tứ phía, sự né tránh hay
chống cự lại chuyện sấu tha hùm bắt quả khó nhọc vô cùng!
Dân tứ xứ tụ về lập trại, dựng lều nơi gò nổng mà ở, phần nhiều là người
dính líu quốc sự, lỡ cơ thất chí hoặc nghèo túng trốn sưu trốn thuế, gọi chung
là “dân lậu”. Họ thường chọn nơi xa xa sông rạch một chút, có việc cần mà cũng
hiếm, khi cần vượt qua thì mượn xuồng hoặc nhiều người liều mạng lội nhanh qua.
Còn trên bờ thì hùm beo, rắn rít… lúc nào cũng lấp ló chực chờ giáp mặt để nhe
nanh, nhả nọc. Anh em hợp sức dầu dãi nắng sương khai khẩn đất, đốn cây rừng,
dựng lều gần nhau để cùng làm ăn mà dễ bề tương trợ, hồi đó gọi chung họ là
“bạn rìu”. Lều lợp lá dừa nước, dựng rào bao bọc hai ba lớp bằng cây cóc, cây
chà là.. vạt nhọn. Ăn uống kham khổ, mắm muối qua ngày, có điều sự bao bọc nhau
để chống trộm cướp, thú dữ thì họ cùng một lòng. Vùng nhiều cây rừng, đất phì
nhiêu cách bến vượt sông Bao Ngược cỡ ba ngàn mét, xưa gọi Truông Cóc vì loại
cây này chen chúc dày đặc bao đời. Một nơi hiểm địa mà lôi cuốn anh em lang
bạt, gan góc tụ về khai thác làm ăn, dựng nên làng xóm phồn thịnh sau này. Cũng
có con đường mòn đất, đường Truông, chạy ngoằn ngoèo, người ta dọn cây cấy lúa,
nhà cửa tuy thưa thớt mà ít lo lắng. Rừng Truông Cóc trải rộng xa bốn hướng,
cây bịt bùng ngút mắt, các loại thú rừng chia nhau mà ở. Đặc biệt, truông rất
nhiều cọp, lại ưa lai vãng cùng người. Chiều chiều, nhóm bạn rìu ngó ra mé rừng
thấy cọp nối đuôi nhau đi lòng vòng kiếm ăn. Thấy thì bấm nhau nhìn, không ai
dám nói đùa, nói xóc bởi tin rằng cọp rất thính tai, thù vặt. Mỗi sáng, chờ mặt
trời lên cao mọi người mới hè nhau xách mang dụng cụ đi làm một lượt. Tới nơi
thì việc ai nấy làm, lâu lâu ngó chừng sau lưng cho nhau. Bữa nọ, họ đang lui
cui đốn củi thì hai con cọp nhẹ nhàng theo những lùm bụi lại gần. Một anh chợt
thấy liền hốt hoảng la to “Cọp… cọp… anh Móm ơi… chạy cho lẹ!”. Con cọp đi đầu
nhảy bổ chụp phủ lên đầu anh Móm, người cầm đầu nhóm, định nhận xuống. Anh vốn
giỏi võ, vung hai tay lên bấu xiết cổ cọp khiến nó hỏng cả hai chân trước lên.
Rồi anh lách mình ra, thúc đầu gối vô hông nó thật mạnh khiến nó liểng xiểng
dội ngược. Con cọp kia nhảy chụp, anh né kịp, hai tay liên tiếp tung những cú
đấm, đạp vào vai, bụng, nó phải dang ra xa. Anh Móm vừa thủ thế vừa lùi dần,
chụp rìu, rút lưỡi, cầm đoạn cán chờ đợi. Hai con cọp lườm lườm xoay vòng quanh
rồi hè nhau tấn công. Anh xoay trờ, tiến thoái lẹ làng, dùng cán rìu nện cho
đôi cọp những đòn đau điếng vào vai, lưng, chân… Coi bộ khó thắng, hai con cọp bị
no đòn dạt từ từ rồi len lét chạy mất. Anh em bạn rìu nãy giờ chạy núp, giờ ra
mừng và hết lời khen tặng anh Móm. Cả khoảng đất là đấu trường quần thảo ác
liệt giữa người và mãnh thú, cây cỏ liệt địa, lông cọp rụng rơi tơi tả. Thuở
giờ gặp cọp là chạy trốn hoặc bậm môi gõ phèng, hò hét cho nó sợ mà bỏ đi, ai
dám đương cự? Anh Móm dặn thêm là tính cọp thù dai, mai mốt nó có tới nữa thì
anh em chạy tránh đi, để mình anh đối địch. Sau chuyện này đồn đãi lan xa,
người ta nể trọng gọi là ông Móm!
Nghỉ ngơi hai, ba hôm, ông Móm rủ mọi người vào rừng, ai nấy còn quá sợ
cọp nên không dám đi cùng, chỉ một anh can đảm chịu theo. Ông không nói gì, nai
nịch gọn gàng rồi soạn lấy cây côn hồi còn học võ giắt lưng, vô rừng đốn củi
như lệ thường. Chừng giữa buổi, nghe mùi khen khét tanh tanh, tiếng ầm ừ trầm
trầm, ông Móm kêu người bạn bò lần ra rẫy nấp kỹ, để ông đối phó. Ngó ra bìa
rừng thấy bầy cọp bốn, năm con dàn ngang hầm hừ, ông biết chuyện đánh nhau là
không tránh khỏi. Nhưng với bản tánh can trường, biết võ nghệ, muốn đánh đuổi
thú dữ cho anh em, bà con an tâm làm ăn, lập ấp…, ông Móm quyết ăn thua đủ trận
này cho chúng sợ. Con cọp lớn nhất xăm xăm đi đầu, hai mắt ngó ông chằm chằm.
Ông bình tĩnh đứng tấn chống côn chờ đợi. Cọp đập đuôi, giương móng vuốt nhằm
cổ ông mà chụp. Ông sụp xuống, chịu cây côn chống thốc vô hàm cọp khiến nó mất
trớn. Rồi ông múa côn đánh liên hồi vào đầu, vai, lưng con vật kém thế. Nó rụng
rời quay ngang, ông nện thêm hai côn vào chân. Con cọp bươi bươi chân trước
thối lui, mắt cụp xuống chịu thua. Ba con cọp kia phóng vô tiếp ứng, ông Móm
càng đánh càng hăng. Lúc sau chúng cũng đành hậm hực quay về bìa rừng, lặng lẽ
đi khuất. Gọi người bạn nấp ở rẫy ra, ông Móm nhác thấy một con cọp khác đứng
xa xa nhìn rồi chậm chạp quay đầu, chân sau đi khập khiễng. Ông biết ngay là
con cọp bị đòn hôm trước, giờ kéo đồng bọn tới trả thù, còn bản thân nó thì đã
sợ ông một nước!
Anh em đốn củi, phát rẫy nhờ ông Móm mà bớt phần lo sợ, thức khuya dậy
sớm ra sức mở đường, trồng trọt, phá rừng lần hồi cho quang đãng. Bọn cọp giờ
chỉ rình mò thấp thoáng trong sâu. Dân nghèo tứ xứ tha phương nghe tiếng ông,
bàn nhau tìm đến Truông Cóc tính thế sinh nhai yên ổn. Những khi ông Móm không
đi vào rừng thì bạn rìu, bạn rẫy mượn cái áo, cái quần cũ của ông đem máng treo
chỗ làm, cọp chắc nghe hơi nên chẳng dám héo lánh gây chuyện. Thời gian sau
chúng bỏ đi biệt dạng. Một vùng Truông Cóc gian nguy hiểm trở nhờ sự dũng cảm
đối đầu của ông Móm cùng bao thế hệ, hiến dâng mồ hôi, xương máu mà dần được
khai quang trù phú, lập làng lập ấp sống an vui. Những bậc cao niên giờ cảm
khái vật đổi sao dời, chuyện xưa còn đó mà bóng cũ tiền nhân lu mờ, ngùi ngùi
nhắc mấy câu thơ: “Ruộng cò bay dặm dài
Truông Cóc / Cháu con ông Móm lăn lóc cơ hàn / Ai xui khiến cảnh điêu tàn / Mồ
ông còn đó, họ hàng chẳng thấy viếng thăm…”.
Đất đai, rừng, rạch, doi, bàu… thuở xưa gọi bằng các địa danh liền lạc
với nhau, gần như chưa phân định địa giới rõ ràng, nhưng ai cũng hiểu và hình
dung ra được đường đi lối lại. Như Giồng Găng là một khu rừng nhỏ mọc toàn cây
găng, phía dưới Bàu Sấu một chút và lọt thỏm trong vùng rừng Cóc, cách biệt bên
ngoài độ hai ngàn mét về hướng đông bắc Gò Công. Cây găng lớn như cây trâm bầu,
gai mọc trong thân, ló ra ngoài giống cựa gà. Hơn 150 năm về trước, một số gia
đình kéo tới quần tụ lập ấp, rồi thì sở rừng nhà ai nấy khẩn để cấy lúa. Đợi
mặt trời lên, cả ấp mới cùng đi đốn củi, chặt cây, đỡ đần nhau chuyện hùm beo,
cá sấu, rắn độc… quẩn quanh gần đó. Sáng nọ, có hai cậu cháu tên tám Nghề và
hai Sến cùng phát chung sở ruộng. Bất thình lình, cọp rình sẵn nơi lùm bụi nhảy
bổ chụp ngay đầu hai Sến ghì xuống. Anh kịp la lên: “Ối… bớ cậu Tám… cứu cháu
với!”. Đang đốn củi gần bên, ông Tám cầm rựa nhào lại chém thẳng ngay lưng cọp.
Nó oằn mình buông nạn nhân ra, chờn vờn chụp đè ông Tám, mắt long lên hung tợn.
Người cháu chỏi dậy lấy rựa chém nhiều nhát vào hai đùi cọp. Con mảnh thú sụm
xuống lết dần ra mé rừng bị ông Tám chạy theo bồi rựa thêm vào chỗ hiểm, nó mới
chịu chết. Bà con xúm lại cầm máu, khiêng anh Hai vế ấp trị vết thương đầu khá
nặng, ông Tám thì chỉ rách thịt chỗ ngực sơ sài. Báo tin về Gò Công, quan có
lời khen và thưởng cho hai cậu cháu một số tiền lớn. Vết thương cọp vồ của anh
Hai phải đắp thuốc, nghỉ ngơi gần ba tháng trời mới khỏi hẳn. Về già, ông Hai
Sến thường chỉ cái thẹo to trên trán mà khoe với đám thanh niên: “Gặp cọp bây
đừng sợ, phải hè nhau mà đánh. Nó sợ tao nên để cái dấu này cho cháu con nhớ
mà… tránh mặt!”.
Những loài động vật hoang dã từ mạnh mẽ cho đến yếu ớt đều phải tìm cách
sinh tồn thích hợp là lẽ đương nhiên. Nhưng dù hung bạo như loài cọp cũng có
lúc xui rủi gặp nạn, chịu chết dưới tay con người. Thuở xưa, tên rạch, gò, bàu,
vàm, giồng… hay lấy tên người tiêu biểu hoặc dựa vào đặc điểm riêng địa phương
mà đặt Ví như Rạch Lá, Rạch Bần, Gò Gừa, Giồng Tháp, Vàm Kinh… Nguồn gốc tên
rạch Chốt (Bình Thành) thuộc vùng rừng và rẫy sình lầy, cỏ lác um tùm, dừa nước
ngút mắt, mương xẻo ngang dọc mà cá tôm nhiều vô số. Cá chốt lúc nhúc dưới rạch
tràn cả lên rẫy, dân xúc phơi khô, làm mắm ăn quanh năm không xiết. Cá có ngạnh
nhọn, đâm nhức, bâu nhau đen mặt rạch Chốt trông giống bàn chông thiên nhiên,
không ai dám lội xuống. Hai anh em nhà nọ bơi xuồng tìm xẻo đặt lọp bắt tôm
tép, chợt thấy trong lùm cây lộ cái lưng cọp, lông vằn vện phát khiếp. Thất
kinh hồn vía, hai anh em bấm nhau rút êm về ấp cho mọi người hay. Trai tráng
mấy chục người xôn xao xách côn, mác, rìu… chia làm ba cánh truy lùng, hai cánh
hai bên, một cánh dùng xuồng bơi dưới rạch. Họ im lặng, hồi hộp dò từng bước tới
chỗ hai anh em thấy cọp lúc nãy thì không còn vết tích gì. Nghe bên kia rạch ra
ám hiệu, liền tìm cách vượt qua tiếp sức. Ràng ràng một con cọp to nằm gần mé
rạch, bụng thở phập phồng mà hai mắt nhắm nghiền, không để ý chi tới số đông
người đang dọ dẫm lại gần. Đứng bao quanh cách khoảng xa một hồi không thấy con
cọp phản ứng, ai cũng lấy làm lạ. Bữa nay nó no mồi hay… ăn chay? Một anh làm
liều, nhẹ bước tới nện thẳng tay côn vào đầu cọp. Sau cú đánh khơi mào này, ai
cũng chen nhau đâm, chém, đập con cọp ráo riết. Chừng thấy nó không cục cựa,
biết đã chết mới dám xúm nhau cột bốn chân, lấy đòn khiêng về. Quan sát miệng
con cọp ọc nhiều nước, bên kẹt tai còn dính mấy con cá chốt, họ bàn tán nghi
hoặc. Có lẽ con cọp đói gắng lột qua rạch Chốt, sa chân uống nước đầy bụng kiệt
sức, nằm yên cho con người hạ thủ dễ dàng, chớ lý nào nó cam chịu trận, không
mảy may chống cự?
Thời khai phá, vùng rừng miền Đông, miền Tây Nam bộ nơi nào cũng nhiểu mảnh thú,
đáng sợ nhất là cọp. Tuy nhiên, với bản lĩnh can trường cùng sự khôn ngoan, mưu
trí, các bậc tiền nhân cũng tìm mọi cách khắc phục, gầy dựng cuộc sống bình yên
cho làng xóm. Những chuyện truyền khẩu về cọp thì rất nhiều, chỉ xin được ghi
lại vài mẩu nhắc nhở mà thôi…
NGUYỄN KIM
__________________
ĐÓN ĐỌC BÔNG TRÀM CHUYÊN ĐỀ ĐẶC BIỆT
DẤU ẤN VŨ TRỌNG PHỤNG
>> Vui lòng nhấp chuột vào ảnh để về mục lục chuyên đề đặc biệt <<
Bài viết hay.
Trả lờiXóaCảm ơn bạn Minh Thư đã đọc và có lời nhận xét, động viên tôi cố gắng nhiều hơn nữa. Và cảm ơn VN Bông Tràm đã chọn đăng. Tình thân. Nguyễn Kim.
Trả lờiXóa