1.
Khoảng sân nhỏ trước nhà ngập ngụa nắng. Người ngồi
trong nhà cũng nóng hôi hổi y ran như vậy. Nhìn con sông chảy sau nhà cảm thấy
trong mình xen kẽ cái buồn buồn man mác, cái luyến lưu, thậm chí là cái nhớ
nhung, dành cho những điều gì đó cũng chẳng rõ, cho những người nào đó xa vời
vợi. Chắc là lại nghĩ đến họ. Hình ảnh của họ trong mắt tôi lúc mới đến và khi
chia tay sao mà khác xa nhau quá, dầu chỉ chưa đầy một tuần. Mà ngộ, nào có
biết họ là ai, ở xứ nào tới, sẽ đi về đâu ? Vậy mà cũng làm mình khó quên những
con người đó được.
Họ là những người bán hàng rong “lưu động” ở trong dịp
lễ cúng đình ở khắp các nơi. Nơi nào có lễ thì họ dọn hàng đến bán, hết lễ lại
dọn đi nơi khác. Ngày họ đến, bốn người phụ nữ xách theo những ba lô, túi, giỏ
xách, bọc bị lỉnh kỉnh, cái nào cũng căng đầy. Nơi họ “tạm trú” là bãi đất
trống gần chiếc cầu ván nhỏ dẫn sang đình. Bãi cỏ hoang nhanh chóng được dọn
sạch, rác cũng không còn. Với mấy cây tre và vài tấm bạt cao su, một túp lều
nhỏ nhanh chóng được dựng lên. Điều lạ nhứt là mấy cái túi mà họ mang theo
tưởng ít đồ đạc, nào ngờ khi sắp xếp ra thì lại chất đầy cả lều.
Một quán bún nhanh chóng được hình thành, vậy là mỗi
người một việc, tiếp tay nhau.
2.
Người dân quê nhanh chóng dễ dàng đón nhận một quán
bún lạ mọc ven đường. Không cần phải thắc mắc về những con người đó. Quán không
quá đông khách, nhưng cũng không đến nỗi vắng vẻ. Mỗi lần vào ăn chỉ một hai
người, bù lại là hễ người nầy ra thì có người khác bước vào. Chị ơi cho tô bún
riêu. Dì ơi thêm miếng rau muống. Để nhiều ớt nghe cô. Trụn nóng nóng húp cho
ấm bụng cô chủ ơi.
Không cầu kỳ màu sắc, không văn vẻ rườm rà, họ đến với
nhau như thế. Quán bún ven đường, tô bún xâm xấp nước nóng hôi hổi, những cái
bàn cái ghế xộc xệch, tất cả đã buộc người bán và người mua lại với nhau, níu
kéo người nơi đây và kẻ tha phương đến gần nhau hơn.
Ngày mưa, quán vắng đìu hiu. Trong cảnh trời đất vần
vũ, ai chạy ngang quán bún nghe mùa cua thơm nồng chợt nổi lên một cơn thèm thì
cũng đành… dằn xuống. Không thể điềm nhiên ngồi ăn trong cái cảnh mưa gió ầm ào
như thế, mà có ăn cũng chưa chắc đã ngon. Bởi vậy dù nồi nước nóng bốc khói
nhưng thau bún vẫn lạnh tanh, thau rau ướt sũng, tô đũa cũng ướt nhem. Gió
quăng quật mấy tấm bạt cao su rào rào. Thiên nhiên cứ như muốn xô đổ cái quán. Nhưng
không xô đẩy nổi bốn người phụ nữ. Quần xắn cao, áo ướt đầm, họ dầm mưa để giữ
lều. Ê buộc lại cây tầm vông đó dùm coi. Kìa hất đổ nước đọng trên tấm cao su kìa.
Sao không căng lại cho thẳng thóm đi. Lại mỗi người một việc, tất bật, lao
nhao. Cuối cùng cái lều vẫn đứng đó, lọt thỏm giữa mênh mông, nhưng không bao
giờ ngã đổ.
Sáng sớm, chưa thức dậy đã nghe tiếng lao xao từ quán
bún. Vừa bước ra khỏi nhà thấy quán đã đông ì xèo khách. Buổi tối, khi mọi
người chuẩn bị ngủ, lại nghe tiếng lao xao từ quán bún ấy. Những âm thanh cô
độc và buồn, tràn ra giữa lòng đêm thăm thẳm. Và, tràn ra cả lòng người, cũng
dịu vợi. Tiếng bàn ghế chạm vào nhau khi thu dọn, tiếng tô cọ vào nhau khi rửa,
tiếng cước chùi nồi xàng xạc. Rõ nhứt là tiếng bàn tán sau một ngày vất vả, xem
hôm nay bán được bao nhiêu tô, lời nhiều hay ít, còn dư rau dư bún không, than
củi có thiếu không… Những tiếng nói sang sảng không ngần ngại trời đã khuya ấy
dường như gây phiền hà cho những người xung quanh, nhưng cũng lại dường như cứ
đeo đẳng mãi người nghe cho tới khi đã ngủ say.
3.
Hôm nay hết lễ, mọi người cũng đã về hết, cả con đường
vắng hoe. Bỗng dưng lại cảm thấy buồn. Có lẽ cũng có phần vì thiếu vắng những
con người đó. Dù sao cũng là “hàng xóm” với nhau gần một tuần, nhớ mặt từng
người một, ngày nào cũng chạm mặt nhau, nhìn ngó nhau. Đôi lúc cảm thấy phiền
vì họ ồn quá, nhưng bây giờ khi họ đi lại như thiếu vắng điều gì quen thuộc.
Hàng ngày thức dậy không còn thấy họ, tối ngủ không còn bị họ làm ồn, nhưng lại
man mác nhớ những ngày họ ở đây. Dường như tôi dễ bị “mẫn cảm” với sự chia ly
(mà sự chia ly nào thì cũng đầy nước mắt).
Những con người chưa từng gặp, chưa từng quen biết,
bỗng chốc biến thành điều gì đó thân thương, quen thuộc. Họ - tôi tạm đặt cho
danh hiệu là “những con người kỳ diệu”. Không cao sang, không làm dáng, nhưng
hình bóng lại rất sừng sững trong mắt người ở lại. Rất đỗi bình dị và lớn lao -
họ đã đến và đi như thế. Dân tứ xứ tha phương mà, biết bao giờ gặp lại, nhưng
sẽ khó mà quên những con người ấy. Phải chăng nói như ca dao:
“Nước sông trong chảy lộn sông ngoài
Thương người xa xứ lạc loài đến đây”.
Tôi thường ít khi muốn đi xa. Đơn giản vì sau mỗi
chuyến đi lại cảm thấy mình mắc nợ, phải trả. Nhưng đôi lúc, không đi đâu chỉ
ngồi ở nhà cũng đã thấy dường như mình đã “mắc nợ” với ai đó rồi.
Với những người lạ từng quen.
VĨNH THÔNG
_______________
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét