Cụ Việt Cúc (1906-1990) tên thật là Nguyễn Văn Tám tự Thê (người dân kính trọng thường gọi thầy Bảy Thê), sinh quán làng Tân Niên Tây (nay gọi xã Tân Tây- huyện Gò Công Đông- tỉnh Tiền Giang). Ảnh hưởng sự giáo dục của gia đình nho giáo, đạo đức, noi gương truyền thống nhân nghĩa ông cha nên cụ chọn đường nhân đạo, đường hay lẽ phải để noi theo. Cụ lấy bút hiệu Việt Cúc, ý nghĩa là người ẩn dật (Cúc đồng ẩn dật), lại mượn tên phương thang Việt Cúc Hoàn giải các chứng uất.
Từ nhỏ cụ học chữ Nho và sách thuốc (Y học nhập môn, Thọ Thế Bảo Nguyên, Tánh dược-mạch pháp…) trong 4 năm và xuất thân hành nghề thuốc bắc lúc 21 tuổi. Năm năm sau, cụ tìm thầy học trong 2 năm toàn bộ tập Y Tông Tâm Lĩnh của Hải Thượng Lãn Ông cùng y lý, kinh nghiệm, biện chứng trị pháp. Từ năm 1937 đến năm 1939, cụ Việt Cúc theo học lớp y học của Hội Y học Trung kỳ tại thành phố Vinh (Nghệ An). Cụ được cấp bằng Y sĩ năm 1941 sau khi ôn tập thành công các môn: sinh lý, bệnh lý học, dược vật, chẩn trị học, phụ khoa, nhi khoa và ngoại khoa. Ngoài ra, cụ còn học thêm về Kinh dịch, nội kinh, nạn dịch, thương hàn kim quy…
Về lại Gò Công, cụ Việt Cúc mở tiệm thuốc hiệu Vân Thê Dược Phòng tại Tân Niên Tây. Sau Cách mạng tháng Tám, cụ tham gia Ủy ban Nông dân, Thanh niên cứu quốc… có nhiều hoạt động tích cực, bị giặc bắt điều tra 2 lần. Trong kháng chiến chống Pháp, nhà cụ bị đốt nên dời về xã Vàm Láng cũng không yên. Cuối cùng, cụ lui về nhà làm thuốc, học thêm về thuốc Nam, chữa bệnh, cộng tác với chùa Hưng Thành Tự tại Gò Công. Mở thêm phòng thuốc ở Hưng Lạc Tự năm 1955. Đến mỗi nơi, cụ đều mở lớp dạy nghề thuốc, học sinh trong và ngoài tỉnh theo học rất đông. Thời gian này, cụ Việt Cúc được Bộ Y tế cấp bằng Đông y sĩ Hạng A. Con trai thứ ba của cụ là Nguyễn Văn Tải tham gia cách mạng, phụ trách Bí thư xã Tân Niên Tây từ năm 1951, đến năm 1958 bị địch bắt và hy sinh vào tháng 3/1959 tại Mỹ Tho. Từ năm 1960-1972, cụ được mời giảng dạy các nơi: Chương Thiện, Bạc Liêu, Thủ Dầu Một…
Cho đến năm 1975, cụ Việt Cúc soạn được 7 bộ sách thuốc, chữa bệnh có giá trị như: Gia y trị nghiệm, Gia nhi điều dưỡng, Nhân thân khí hóa, Gia viên dược thảo… và 2 tập ký sự “Gò Công cảnh cũ người xưa”. Năm 1977, Viện Y học dân tộc TP. Hồ Chí Minh mời cụ hợp tác nghiên cứu, chữa bệnh, dạy học. Bốn năm tại Viện, nhằm hướng dẫn, khuyến khích người dân dùng dược liệu có sẵn, cụ viết thêm được 7 quyển sách thuốc Nam: 106 vị thuốc nam thông dụng và kinh nghiệm, 100 y án chữa bằng thuốc nam, 27 loại bệnh chữa bằng thuốc nam thay vị thuốc bắc… Tuổi cao, cụ về quê an dưỡng, nhưng không hề từ khước khi có người bệnh đến xin chẩn mạch, kê đơn thuốc… Từ năm 1980 cho tới lúc mất (8-5-1990), bằng kinh nghiệm cả đời, cụ biên soạn và gởi tặng các Hội, đồng nghiệp thêm 10 bộ sách thực nghiệm: Nam dược trị liệu, Thực vật trị liệu, Sống lâu sống khỏe sống có ích… Một đời giữ lòng thanh bạch, chuyên tâm nghiên cứu, viết sách, chữa trị bệnh giúp người, trước khi tạ thế, cụ Việt Cúc - Lương y Nguyễn Văn Tám để lại những dòng tâm huyết: “Vì thiết tha yêu nghề và có lòng mong mỏi ngành Nam Dược của nước nhà phát triển ngày thêm tươi sáng nên tôi thành tâm sưu tập, suy nghĩ, chọn lọc những kinh nghiệm quý báu trị bệnh của quãng đời mình viết lại thành sách… giúp cho hậu học rộng phần tham khảo, thí nghiệm và nghiên cứu sau này.”
Cách đây vài năm, dịp đi tìm nhân chứng, tư liệu xác thực bổ sung cho quyển “Lịch sử truyền thống đấu tranh Cách mạng của Đảng bộ và Nhân dân xã Tân Tây”, tôi có tới Xóm Rèn (ấp 3- xã Tân Tây-huyện Gò Công Đông) tìm nhà cụ Việt Cúc (thầy Bảy Thê), một nhân sĩ, thầy thuốc nổi tiếng đạo đức mà hầu như người quanh vùng đều biết. Thầy giáo về hưu Nguyễn Văn Nhất là con trai út của cụ sốt sắng giúp đỡ, cung cấp tận tình những gì thầy có được. Khi từ giã, thầy tặng tôi 2 tập sách “Gò Công cảnh cũ người xưa”, ghi thể loại ký sự - từ thế kỷ 18 đến đầu thế kỷ 20, do cụ Việt Cúc viết, xuất bản năm 1969.
Dù trước đây đã đọc qua hai quyển sách tổng cộng hơn 200 trang này, nhưng sự hấp dẫn ấy không suy giảm mà ngược lại. Bài viết không dài, văn phong giản dị mà chân thật, sưu tầm, tra cứu công phu, rõ ràng về địa lý, địa danh, phong tục, lễ hội, truyền thuyết, các sự kiện nổi bật từng làng xã ở Gò Công, những tiến bộ khoa học lạ lẫm du nhập từ phương Tây… tất cả khiến người đọc khó mà dứt được.
Quyển thứ nhất, cụ Việt Cúc giới thiệu Gò Công thuở xưa từ cuối thế kỷ 17, thời tiền nhân khẩn hoang lập ấp, mở rộng đất gò, khai thông đường thủy cho thuận lợi sản xuất, sinh hoạt. Sự mở mang vùng có lẽ bắt đầu từ phía Tây nam về Đông bắc như bài ngũ ngôn xưa “Vĩnh - Bình - Long - Yên trú/ Đồng - Tân - Phú tương quang” (Vĩnh hựu, Vĩnh lợi, Vĩnh trị - Bình phục nhì, Bình phú, Bình xuân - Long chánh, Long thạnh - Yên luông đông, Yên luông tây - Đồng sơn - Tân niên trung, Tân niên đông, Tân niên tây, Tân phước, Tân thành - Phú thạnh đông). Phần lịch sử và Di tích có các bài: Lăng Võ Tánh tại Gò Tre, Giồng Sơn Qui, Truông Cóc, Vàm sông Bao Ngược với câu hò nao lòng “Anh đi chuyến gạo Gò Công/ Anh về Bao Ngược bị giông đứt buồm…/Anh ơi!/ Thuyền anh cao nhưng sóng cả nhận chìm/ Em trông sông bao nhiêu khúc nỗi niềm ruột đau ơ hơ…”. Kế đến là lai lịch, nguồn gốc chợ Tổng Châu, Giồng Xe, Cống Ông Lánh, Giồng Găng, Chùa Mục Đồng, Rạch Già, Láng Chim, Đám Lá Tối Trời, Rạch Ông Niên, Bến Vựa Ngoài, Vịnh Đôi Ma, Cầu Tam Bảng, Trại Cá, Cửa Khâu… và các đập, cống, bến, xóm, ao, thành, nhà, miễu, chợ, rạch, ụ, gò…, hầu hết là nói về các xã phía đông Gò Công. Cụ viết thêm về những nghi lễ xưa (Quan, Hôn, Tang, Tế) rất rành mạch. Tiếp theo là “Những biến cố xảy ra trong thời kỳ chánh phủ Pháp đến xứ này” có các bài: Nạn Văn Thân, Nạn Đề Thám, Nạn Lính tản, Phong trào Cách Mạng, Thầy Ta học tiếng Tây. Bão lụt năm Thìn (1904), Thiên Địa hội, Giặc cào cào (1908), Tá điền với chủ điền. Về “Thời kỳ khoa học phát minh” có bài : Cái máy hát, Máy chụp hình, Đua xe máy. Trong bài “Máy chụp hình” có kể chuyện vào Lễ khai thị chợ mới Gò Công (1916) đủ đầy quan viên huyện phủ tổng làng dự, cùng đoàn xe từ Sài Gòn xuống. Lúc ban nhiếp ảnh trương máy chuẩn bị chụp quan viên thì “… một ông lớn tuổi đứng chắc lưỡi ra vẻ hoài nghi, nói lên rằng: Thật là quan Tây họ khôn khéo trật đời, họ đem máy ấy để “chụp hình” hết quan viên, hương chức tỉnh này. Rồi họ thâu hình thâu vía vào đó, khiến người ấy mất hồn vía hết, đặng cho họ dễ sai khiến…”. Thiên hạ nghe vậy sinh sợ sệt, máy chụp hình tới đâu thì lo trốn đi nơi khác! Đặc biệt, bài “Máy bay” tường thuật sự kiện lớn đầy thú vị (năm 1913?) đối với người Gò Công. Để đón chiếc máy bay lần đầu tiên từ Sài Gòn xuống Gò Công, chính quyền sở tại lo làm đường đất phẳng dài độ 1000 mét, ngang 1 mét (đoạn giếng nước, gần ngã tư nhà thờ, đường Nguyễn Văn Côn- TX.GC hiện nay), tổ chức trọng thể, truyền rao cho dân chúng các làng đến xem. Dân tình hiếu kỳ nườm nượp chờ đón từ khuya, 9 giờ sáng máy bay xuất hiện lượn ba vòng rồi đáp xuống đường đất. Trích đoạn tác giả miêu tả chiếc máy bay rất hình tượng: “… kiểu mới phát minh, còn đơn sơ, có hai cánh vuông trên và cánh dưới đều lợp thiếc mỏng. Khi cho máy chạy, phải đến trước đầu, dùng tay nắm cái cánh quạt xoay ít vòng cho lấy trớn, máy mới phát động. Đến lúc sắp bay, lại cần năm, bảy người nắm đuôi ghì lại cho phần đầu cất lên, rồi mới buông tay cho máy bay bổng…”. Người lạc quan, người bi quan bàn tán rất nhiều về tiến bộ khoa học này.
Quyển thứ nhì, cụ Việt Cúc có lời giới thiệu khá chi tiết về đất Gò Công “Địa linh - Nhân kiệt” theo thuật phong thủy, dịch lý. Sau đó là các mẩu chuyện: Ông súng cà lăm, Đời bà Lưu, Cảm tình cười và khóc, Ngôi mộ xóm Gò. Nội dung đề cao cuộc kháng Pháp của AHDT Trương Định với những liệt nữ, anh hùng như bà Lưu (Gia Thuận), Đốc binh Tình, Phó đốc binh Chung, Đặng Công Khả (Vĩnh Hựu), ông Hòa, ông Quới (Tân Niên Trung)… Nhiều nghĩa binh tan tác, hy sinh hoặc bị bắt khi Trương Định tuẩn tiết với khí phách yêu nước cao cả. Chuyện kể hai anh em ruột là nghĩa binh bị bắt nhất định không hợp tác với giặc. Trích đoạn đối đáp khí khái với tên Thiếu tá Pháp trước khi họ bị xử bắn như sau:
- Bây cố ý dẫn lính ta lạc lối trong bưng?
Hai thiếu niên làm thinh.
- Trước khi đi ta đã nói rằng: chúng bây sẽ bị bắn nếu chúng bây là hướng đạo bất trung thành. Trả lời đi!
- Ông có cho hay như vậy - Người anh cả đáp lời sau khi do dự một chút,
- Vậy bây chịu bị bắn?
- Chúng tôi sẵn lòng…
Kế tiếp, cụ viết về lai lịch di tích Gò Lân, miễu Bà Rô, Mả Bà Tương, Chùa Bà Đá, Ao Trôm xóm Rèn, Xóm Đình, Cầu Ông Hương Lễ… (thuộc Tân Niên Đông, Tân Niên Tây, Kiểng Phước, Tân Phước…) với nhiều truyền thuyết dân gian. Rồi tới Ao bùng binh, Giồng Nâu, Cây me Phước Trung, Ngôi phong thủy… (vùng Bình Nghị, Tăng Hòa) và nhiều nơi lân cận không thể kể ra hết. Tác giả nhắc thêm chuyện “Công xi Tào cáo” chuyên lùng bắt dân nấu rượu, để giành thế độc quyền. Chuyện “Gắn mề đay”, “Trên đường hầu bái” với tình huống lố bịch của những kẻ chuộng hư danh, bợ đỡ, phù phiếm. Còn rất nhiều bài sưu khảo địa danh, phong tục như: Cửa Đàng Xà, Cầm trâu bãi cỏ, Chợ Sáu Thoàn, Vàm Rồng, Mộ quan Thừa Chỉ… Cuối quyển sách, cụ thêm phần Bổ Chính những sai sót ở quyển thứ nhất. Phần Tạp lục (Từ thế kỷ 18 đến đầu thế kỷ 20) ngắn gọn về Chánh trị, Văn học, Vũ bị, In sách và đúc tiền, Đong lường và cân, Giá trị ruộng và nộp thuế, Giá lúa gạo, vải, củi, Sự chi tiêu, Thuế thân và nhân công, Cách sanh hoạt… giúp người đọc có cái nhìn khái quát về xã hội, đời sống ngày trước.
Chỉ với hơn 200 trang sách “Gò Công cảnh cũ người xưa”, đúng như lời tựa cụ Việt Cúc, đã đưa người đọc hồi tưởng, hiểu biết thêm nhiều về nguồn cội Gò Công, để thêm yêu quý vùng đất phía đông tỉnh nhà.
Cụ Việt Cúc, một thầy thuốc đầy tâm huyết, am hiểu tường tận y lý, dược liệu Bắc Nam, viết nhiều quyển sách hướng dẫn, nghiên cứu chuyên môn cần thiết cho các thế hệ sau học hỏi. Về tác phẩm văn học, với “Gò Công cảnh cũ người xưa” mãi là dấu ấn giá trị, xứng đáng giữ gìn và trân trọng. Cụ Việt Cúc - một nhân sĩ đất Gò Công!
NGUYỄN KIM
______________
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét