|
Phác thảo bìa sách
9 THẬP KỶ TÂN NHẠC VN
Tác giả tự trình bày
|
Khi cuộc chiến tranh
Việt Nam ngày càng lan rộng, ở miền Nam, không chỉ có các nhạc sĩ sáng tác các
bài hát ca ngợi người lính Việt Nam Cộng hòa mà còn xuất hiện nhiều ca khúc
phản chiến. Người tiêu biểu nhất cho phong trào nhạc phản chiến này là Trịnh Công Sơn. Bắt đầu từ
năm 1966, nhạc
phẩm của Trịnh Công Sơn qua
tiếng hát Khánh Ly đã chinh
phục nhiều giới, đánh trúng tâm lý chán ghét chiến tranh, mong muốn hòa bình
của công chúng...
Với bốn tập ca khúc: Ca
khúc da vàng 1, Ca khúc da vàng 2, Kinh Việt Nam, Ta phải thấy mặt trời (Nhân Bản xuất bản 1967, 1969, 1972) gồm 46 ca khúc phản chiến,
hầu hết được thanh niên đường thời đều thuộc như: Huế Sài Gòn Hà Nội, Nối vòng tay lớn, Bài ca dành cho
những xác người, Gia tài của mẹ, Đồng
dao hòa bình… Nhạc
phản chiến của anh bắt nguồn từ tình yêu thương, là những bài tự tình dân tộc,
nói về thân phận khổ ải của con người trong chiến tranh, nêu lên một
hình ảnh Việt Nam đau thương vì cuộc chiến, chống bạo lực và chiến tranh, kêu gọi sự đoàn kết và xóa bỏ
lòng hận thù.
Đây là dòng nhạc với nhiều ca khúc được phổ biến sâu rộng trong giới thanh niên, bị chính quyền VNCH cấm đoán và trong số đó có những bài bị cấm đoán bởi cả hai phía
chính quyền. Đích thân Tổng thống VNCH
Nguyễn Văn Thiệu ký Lệnh cấm mang số
33 ngày 8.2.1969 cấm phổ biến nhạc Trịnh Công Sơn, chủ yếu trên các đài phát
thanh, truyền hình. Nhưng nhạc của anh vẫn được công chúng say mê và được viết ở giữa đô
thị và được phát
hành công khai bởi nhà xuất bản Nhân Bản, chứ không phải “trốn vào
rừng sâu để viết” và in “lậu” như gần đây một
nhà nghiên cứu âm nhạc đã viết. Ký giả Jean - Claude Pomonti trên tờ Le Monde
(No. 7570, 17.5. 1969) cho biết Đài Phát thanh Hà Nội lúc đó đã chọn
lọc phổ biến một số ca khúc của Trịnh Công
Sơn.
Xin dừng lại hơi lâu ở Trịnh Công Sơn. Vì trong lịch sử âm nhạc VN,
hiếm có nhạc sĩ nào có thể tạo cho mình, cho thế hệ mình những cơn lốc nghệ
thuật làm lay động đến chiều sâu tâm thức con người ở trong và ngoài kích thước
quốc gia như Trịnh Công Sơn. Anh không những được người dân miền Nam thuở
ấy mến mộ mà còn được người nước ngoài biết đến qua nhạc phẩm và báo chí quốc
tế viết về anh.
Tờ New York Times đăng tải một bài viết của thông tín viên Bernard
Weinraub tại Sài Gòn được rút tít: “Một người Việt Nam trẻ đã hát về nỗi buồn
của chiến tranh”. Tờ Peace News số ngày 8.11.1968 viết về anh
với nhan đề “Bob Dylan của Việt Nam” (The Bob Dylan of Vietnam - Bob Dylan: nhạc sĩ phản chiến
và
tranh đấu cho dân quyền ở Mỹ). Còn nhà báo Jean - Claude Pomonti trong bài viết về anh trên phụ trang báo Le Monde đã có cái tựa rất “chân phương”:
“Trịnh
Công Sơn ca nhân phản chiến tại miền Nam Việt Nam” (“Trịnh Công Sơn, chantre de
l’antiguerre au Viêtnam du Sud”).
Năm
1970, bài trả lời phỏng vấn thông tín
viên Crystal Erhart về chiến tranh của của anh đăng trên New York Times Dispatch. Trước đó, năm 1968, nhà báo nầy đã có bài viết dài về
anh “Huế
hôm nay” đăng trên News Service
International Inc. Bài viết nầy được đánh giá “là có cái nhìn khách quan khi nói về
đời sống và nhạc Trịnh Công Sơn”, làm
cho người nước ngoài hiểu hơn về anh và về chiến tranh VN. Bởi vậy, việc
cấm nhạc Trịnh Công Sơn của chính quyền VNCH không chỉ khiến cho dư luận công
chúng và báo chí Nam VN phản đối mà còn gây
nên phản ứng của giới báo chí ngoại quốc qua những bản tin đánh đi đã bênh vực Trịnh Công Sơn, nhất là đối
với dư luận nước Mỹ, vì nhạc của Sơn đã lôi kéo sự chú ý của dân chúng Hoa Kỳ
trước đó. Được ký giả J. C. Pomonti hỏi về vấn
đề này, Trịnh Công Sơn đã thẳng thắn trả lời: “Trong chế độ dân chủ, tôi có quyền viết, và cấm là quyền của chính
phủ” (En démocratie j’ai le droit d’écrire et le gouvernement celui
d’interdire). Với báo Le
Monde, anh tuyên bố: “Je ne veux pas
faire de différence entre les guerres justes et les autres” ("Tôi không muốn phân biệt giữa chỉ
chiến tranh và những người khác”). Còn trả lời thông tín viên The New York Times (số ra ngày 10.6.1970),
anh nói: “Tôi là một nghệ sĩ thuần tuý.
Tôi chỉ diễn tả những điều gì tôi mơ ước, nhưng tôi không biết làm cách nào để hoàn
thành những mơ ước của tôi!…”
Còn ở trong nước, ngoài những tờ công báo và vài tờ thân
chính quyền, báo chí Sài Gòn đều phản ứng mạnh mẽ trước vụ việc chính quyền VNCH cấm nhạc
Trịnh Công Sơn. Báo Chính Luận số ra ngày 13-2-1969 cũng bày tỏ ý kiến: “Nếu về phương diện chính trị có thể bị coi là đã “không phân biệt bạn,
thù” thì về phương diện triết lý của sự sống đã nói lên được phần nào thân phận
bi đát của miền Nam bị kẹp giữa các thế lực quốc tế và để sống còn, vì không có
đủ sức lực “trực tiếp trả miếng” nên đã phải tiến, lui, tránh né, để gián tiếp
phản công mà tự vệ. Nhạc Trịnh Công Sơn nên được hiểu theo tinh thần phản chiến
đó”. Và đặt câu hỏi: “Chính trị của Việt Nam Cộng hoà, nghĩa là của chính
trị của một chế độ dân chủ đã làm trọn nhiệm vụ có nó hay chưa?”
Nhạc phản chiến của Trịnh Công Sơn đi dần vào nỗi đau của con
người trong cuộc chiến hiện hữu với những đắm đuối đến tận cùng của đam mê, hoà
trộn cùng niềm đau thương rã cánh của một tâm hồn ngu ngơ, nhìn cuộc đời với lo
sợ và chán chường. Chính vì những mâu thuẫn nội tâm phát triển một cách quá
mạnh mẽ trong mỗi suy nghĩ, nên tiếng nhạc của anh lúc nào cũng choáng váng,
ngây ngất trong từng vũng âm thanh run rẩy, nghẹn ngào… Nó làm cho tâm tư bị vò
xé bởi niềm đau không thành tiếng. Nó ray rứt, đứt nuối trong mỗi ưu tư về thân
phận vật vã trước định mệnh…
Từ cuối thập niên 60, ca khúc Trịnh Công Sơn có sự “chuyển mình” trong nét nhạc cũng như ca từ.
Anh như cố gắng viết đơn giản từ lời ca đến câu nhạc. Các giai điệu (mélodie) đã bớt dần tính cách mô tả để
nghiêng dần về nhạc kể (récilatif) hơn.
Ở thể nhạc kể, nét nhạc cô đọng, hàm chứa trong nó hiệu năng truyền cảm không
bị gò bó bởi phách, do đó, ý thức nghệ thuật cao và giản dị hơn. Tính chất mới
trong nhạc Trịnh Công Sơn lúc nầy, ở một vài ca khúc có các đoạn ngắn, một, hai
phách (mesure) và âm tiết (accent) nghiêng về biểu hiện, để diễn
đạt một vài nội dung của lời ca. Trịnh Công Sơn muốn tránh bớt cái tính chất
gọi là “hát hò” quanh một
nội dung buồn bã.
Trên thế giới, nhiều nhạc sĩ đã thành công
với những ca khúc phản chiến và nhiều ca khúc thuộc chủ đề này đã
trở nên nổi tiếng như "Blowin' in the Wind" của Bob Dylan được
xem là thánh ca của phong trào tranh đấu cho dân quyền, Give Peace a Chance của John Lennon trở
thành giai điệu chính của phong trào phản chiến tại Mỹ những năm 70. Tại VN, ngoài
Trịnh Công Sơn, cuộc chiến tranh VN là đề tài bức xúc cho ca khúc những
nhạc sĩ khác như Phạm Duy trong các tập nhạc Tâm ca, Tâm phẫn ca hay Miên Đức Thắng với tập nhạc Từ đồng hoang ...
Sau đó, phong trào
sáng tác ca khúc phản đối chiến tranh ở Miền Nam được nhân rộng với nhiều
nhạc sĩ tài danh như Phạm Thế Mỹ, Lê Hựu Hà, Nguyễn Phú
Ỵên, Nguyễn Văn Sanh, Nguyễn Xuân Tấn, Nguyễn Tuấn Kiệt, Trương Quốc Khánh …
Các
nhạc sĩ và ca khúc phản chiến gắn liền với phong trào đấu tranh xuống đường và được ngân vang trong các
chương trình “Hát cho
đồng bào tôi nghe” thuở ấy và còn ngân vang sau nầy mãi trong lòng
nhiều thế hệ Việt Nam như: “Tự Nguyện”, "Sức Mạnh Nhân Dân”
(Trương Quốc Khánh), "Tình Nghĩa Bắc Nam",
"Ðường Ta Đi Niềm Tin Lớn Mạnh" (Nguyễn Văn Sanh),
"Phương Ðông Ðã Dậy Nắng hồng" (Nguyễn La Nghi), “Qui Nhơn
Ngời Ngời Biển Lửa" (Ðoàn Ðình Quang - thơ Trần Nhật Nam), "Hát Trên Ðường Tranh Ðấu" (Ðoàn Công
Nhân), "Người Cha Bến Tàu" (Trần Long Ẩn - ý thơ Võ Thiệu Quang),
"Không Ai Ngăn Nỗi Lời Ca" (La Hữu Vang), "Dậy Mà Ði” (Nguyễn Xuân Tấn - thơ Tố
Hữu), “Thừa Phủ ơi lòng ta hồng biển lửa”, “Sài Gòn Ơi, Vùng Lên” (Nguyễn Phú Yên), "Những
Người Không Chết” (Phạm Thế Mỹ) và
Tôn Thất Lập với nhiều ca khúc như "Lúa Reo Trên Khắp Ðồng Bằng","Từ Sông Hương đến Sông
Hát", Chúng Ta Ðã Ðứng Dậy”…
Thực ra, dòng nhạc có vẻ như tự phát theo khuynh hướng dân tộc chủ nghĩa
nầy chịu ảnh hưởng sâu sắc của phong trào Hát cho đồng bào tôi nghe do Đảng Cộng sản Việt Nam lảnh đạo,
thông qua bốn cán bộ cốt cán “nằm vùng” của mình là các nhạc sĩ: Trần Long Ẩn, Tôn Thất
Lập, Trương Quốc
Khánh, Nguyễn Văn Sanh tổ chức, điều hành. Họ hoạt động trong phong trào nhạc phản
chiến dưới phương thức công khai và bán công khai trong phương châm của nhóm
cốt cán nầy: “Lấy bí mật làm gốc, tận
dụng khả năng công khai và bán công khai”. Để tận dụng hai khả năng nầy, họ
họ hòa nhập vào dòng nhạc phản chiến với nhiều ca khúc được hát công khai với
nhiều bút hiệu khác. Tôn Thất Lập có các bút danh: Nguyễn Dân, Trần Nhật Nam,
Lê Nguyên; Nguyễn Văn Sanh có: Nguyễn La Nghi, Đoàn Định Giang; Trần Long Ẩn
có: Đoàn Công Nhân, Nguyễn Phiêu; Trương Quốc Khánh có Trương Quân Vũ. Phong
trào Hát cho đồng bào tôi nghe
được SVHS ở Sài Gòn, Huế rồi toàn Miền Nam ủng hộ tạo thành một sức mạnh phản
kháng tổng hợp làm chính quyền Việt Nam Cộng hòa thật sự hoang mang.
Các nhạc sĩ được xếp chung vào
dòng nhạc phản chiến có phần giao chung là chống chiến tranh, mong muốn hòa
bình cho dân tộc, nhưng xét cho cùng có một sự phân cực giữa các nhạc sĩ dòng
nhạc nầy, nhất là nội dung và quan niệm về chiến tranh và mục đích chống chiến
tranh không phải giống nhau. Các nhạc sĩ là các chiến sĩ cách mạng “nằm vùng”
như Trần Long Ẩn, Tôn Thất
Lập, Trương Quốc
Khánh, Nguyễn Văn Sanh… là chống chiến tranh xâm lược, đấu tranh cho hòa
bình thống nhất Tổ quốc. Các nhạc sĩ theo chủ nghĩa dân tộc thuần túy (yêu nước
không đảng phái chính trị) như Trịnh Công Sơn, Nguyễn Phú Yên, Vũ Đức Sao Biển,
Lê Hựu Hà… là chống
chiến tranh gây tang tóc cho quê hương, đau khổ cho đồng bào. Còn một số nhạc
sĩ có quan điểm chính trị phức tạp như Phạm Duy thì đối cực rõ
ràng với hai nhóm nhạc sĩ trên: vừa viết ca khúc phản chiến nhưng lại vừa viết
những bài hát ca ngợi chế độ, ca ngợi hình ảnh và chiến công của người lính Cộng
Hòa. Phạm Thế Mỹ, nhạc sĩ được hâm
mộ trong dòng nhạc vàng lại viết cả nhạc phản chiến lẫn nhạc ca ngợi hình ảnh
oai hùng, phong sương của anh lính chiến.
Còn phần giao giữa nhạc phản chiến và nhạc du ca cũng rất lớn, có khi gần
như chồng khít lên nhau, trùng nhau, bởi dù đứng ở góc độ khác nhau nhưng đều muốn “dùng tiếng hát chung của cộng đồng để xây đắp một quê
hương hòa bình, tươi sáng". Phong trào
phản chiến của sinh viên, học sinh thường hát những ca khúc du ca, trong khi
các đoàn du ca lại có những bài ca sinh hoạt là nhạc phản chiến. Hai dòng nhạc
nầy, nhất là nhạc phản chiến vào cuối giai đoạn, đã hòa nhập với dòng nhạc giải
phóng, cách mạng góp phần động viên, cổ vũ quần chúng tham gia vào công cuộc
thống nhất đất nước. Nhiều nhạc sĩ tiêu
biểu như Trần Long Ẩn, Tôn Thất Lập… lại thành công ở cả 4 dòng nhạc tình ca,
du ca, cách mạng và phản chiến. Trịnh Công Sơn viết rất nhiều thể loại: nhạc du
ca, tình khúc và phản chiến… Riêng Phạm Duy lại thành công trong hầu hết các
dòng nhạc, các thể tài âm nhạc Việt Nam hiện đại: nhạc tiền chiến, nhạc đỏ,
nhạc trẻ, nhạc lính, du ca, tình ca, bình ca, tâm ca, nữ ca, nhi đồng ca… và nhạc phản chiến.
Các danh ca hát nhạc phản chiến là: Thái Thanh, Lệ Thu, Khánh Ly…
Lê Thiên Minh Khoa
(Trích
trong cuốn sách “9 THẬP KỶ CA KHÚC TÂN
NHẠC VIỆT NAM” - nghiên cứu & nhận định của Lê Thiên Minh Khoa
- sắp xuất bản, 2018).
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét