Thời kháng chiến chống Pháp, ở vùng tạm chiếm, thực dân Pháp và tay sai
đã đẻ ra một loại nhạc thường được gọi là nhạc tâm lý chiến, nhưng số người
viết nhạc xu thời đi theo rất ít, mà chỉ toàn là bất tài, nên chỉ có vài bài
hát tuyên truyền không có giá trị nghệ thuật mà công chúng cũng không hề quan
tâm đến. Đến thời Mỹ vào miền Nam, bộ máy tuyên truyền, dân vận, chiêu hồi được
tổ chức quy mô hơn, Bộ Thông tin - Dân vận - Chiêu hồi của VNCH có hẳn một nha
chuyên trách về tuyên truyền văn nghệ, trong đó có ca nhạc. Ca khúc tâm lý
chiến của Việt Nam cộng hòa có thể quy về 2 dạng: nhạc chống Cộng và nhạc lính.
Nhạc
chống Cộng là nhạc có nội dung trực tiếp ca ngợi chế độ và chiến công của người
lính cộng hòa, phê phán chủ nghĩa xã hội và đả kích người cộng sản Việt Nam, quân ca, hành khúc
của các quân, binh chủng, các đơn vị quân đội Sài Gòn, được viết theo đơn đặt
hàng của chính quyền Sài Gòn và cơ quan International Voluntary Service - IVS (tiền thân của Peace Corps - Đội quân Hòa bình sau nầy), một tổ chức chính trị ngoại vi của USAID, Mỹ.
Hùng Cường và Phạm Duy có nhiều sáng tác thuộc loại nhạc nầy. Hùng
Cường nguyên là một diễn viên cải lương, sau 1960 chuyển sang hát kịch động
nhạc, rồi viết bài hát chống Cộng, như: Hành khúc người trở lại, Tình
trăng bến hảo, Tâm khúc người về…, nhưng cả giai điệu lẫn ca từ đều
không có giá trị nghệ thuật nên không
thu hút được công chúng. Còn“phù thủy âm thanh” Phạm Duy thì khác. Từ năm
1956, khi Ngô Đình Diệm chấp chính ở miền Nam, Phạm Duy đã có bài hát Chào
mừng Việt Nam để đón chào chế độ mới, ca kịch Chim lồng
so sánh 2 thể thế Cộng sản và Quốc gia. Rồi hàng loạt tác phẩm ra đời sau Mậu
Thân 1968: Tôi không phải là gỗ đá, Nhân danh (thơ Tâm Hằng), Bi
hài kịch (thơ Thái Luân), Đi vào quê hương (thơ Hoa Đất
Nắng), Người lính trẻ, Bà mẹ phù sa…
Trước đó, năm 1965, ông có bài hát Kẻ
Thù Ta (Tâm ca số 7), mà có người không hiểu, xếp vào dòng nhạc phản
chiến (công bằng mà nói, Phạm Duy có nhiều bài hát thuộc dòng nhạc phản chiến
nhưng không phải bài nầy), nhưng những người hiểu, thì cho rằng ông đã đánh
đồng chính nghĩa với phi nghĩa, chiến tranh giải phóng dân tộc với chiến tranh
xâm lược, kẻ xâm lăng với người nghĩa sĩ. Ca từ bài hát có đoạn: “Kẻ thù ta
mang áo mầu chủ nghĩa/ Kẻ thù ta mang lá bài tự do/ Mang cái vỏ thật to/ Mang
cái rổ danh từ/ Mang cái mầm chia rẽ chúng ta…”.
Điều làm nhiều người ngạc nhiên hơn cả là ông còn viết cả một ca khúc
động viên thanh niên đi lính cộng hòa, mà có thời trở thành nhạc hiệu, bài hát
chính thức của đài phát thanh Quân đội VNCH: “Một, hai, ba, chúng ta
đi lính Cộng Hòa/ Vì quê hương chúng ta thì rất hiền hòa/… Đi, đi nào cùng đi,
đi giữ phố phường/ Đi, đi nào cùng đi, đi giữ ruộng nương…”.
Nhà nghiên cứu văn
nghệ và triết học Nguyễn Trọng Văn trong cuốn sách “Phạm Duy đã chết như thế nào?”(1971) gây tiếng vang rất lớn
trong giới trí thức, văn nghệ sĩ và sinh viên học sinh miền Nam thuở ấy, nhận
định rằng: sau ca khúc kháng chiến và tình khúc, khi làm bồi bút cho chính
quyền, Phạm Duy coi như đã chết.
Một điều không bình thường và
chưa có tiền lệ trong một thể chế cộng hòa là bài hát “Suy Tôn Ngô Tổng Thống” với nhạc của Ngọc Bích, lời của Thanh Nam đã trở thành quốc ca 2 của
nền đệ nhất cộng hòa, khi trở thành bài hát chính lễ trong nghi thức chào cờ sau bài quốc ca 1
là bài ‘Tiếng Gọi Thanh Niên” của
Lưu Hữu Phước được sửa lại lời ca. Sự bợ đỡ, chuyên quyền, phong kiến của một
chế độ phô bày trắng trợn trong nội dung ca từ và nghi lễ tôn sùng cá nhân lảnh
tụ. Bài hát mở đầu bằng 2 câu: “Ai
bao năm từng lê gót nơi quê người/ Cứu đất nước thề tranh đấu cho tự do…”. Quốc ca 2 được dân chúng miền Nam chế
thành mấy dị bản và hát nghêu ngao cùng nhau. Hoặc trở thành nhạc hài hước: “Tôi đi ngang tiệm hủ tiếu trong Đô Thành/
Thấy họ bán thịt phở tái thiệt là ngon…”. Hoặc trở thành một “chính ca”
khác, nhưng nói mé về hành tung lảnh tụ:
“Ai bao năm từng chui rúc trong nhà
dòng/ Trốn mất đất, chạy theo gót quân thực dân…”.
Có thể đưa vào loại nhạc nầy ca khúc nói về một chiến trận cụ thể như Cờ
bay trên Quảng Trị thân yêu (thơ Tô
Kiều Ngân) của Trương Hoàng Xuân, Tiếng
hát Bình Long về Trị Thiên anh dũng của tập thể Cục Chính huấn Quân lực VNCH…
Cũng có thể đưa vào đây các bản quân ca, hành
khúc của các quân, binh
chủng, các đơn vị quân đội VNCH được viết theo đơn đặt hàng của quân đội Sài
Gòn. Như : Lục quân (hoặc Không quân, Hải quân, Biệt động
quân, Thiết giáp binh…) VNCH hành khúc;
Sư đoàn nhảy dù (hoặc Thủy quân lục chiến, Bộ binh số 1, 2. 3, 5,
18, 22…) hành khúc; Trường Võ bị Đà Lạt (hoặc Võ khoa Thủ Đức,
Hải quân…) hành khúc. Trần Thiện Thanh (ca sĩ Nhật Trường) cũng đóng góp vào đây bài Sư đoàn 1 Bộ binh hành khúc.
Loại nhạc tâm lý chiến thừ hai là nhạc lính. Nhạc lính tâm lý chiến là
loại nhạc ca ngợi “chính nghĩa quốc gia”, chống Cộng một cách gián tiếp, tế
nhị, khéo léo hơn và được phổ biến sâu rộng hơn trong công chúng. Ca từ của
nhạc lính thường là ngôn ngữ giản dị, bình dân, dễ hiểu, nội dung vẽ lên hình
ảnh oai hùng, phong sương, hào hoa, có khi “chịu chơi”, ra trận chịu đựng gian
khó bởi lý tưởng “vì yêu quê hương” của người lính cộng hòa. Phải xác định rõ
rằng, trong dòng nhạc tâm lý chiến VNCH có nhạc lính, nhưng không phải tất cả
nhạc lính đều là nhạc tâm lý chiến, như một số nhà nghiên cứu âm nhạc hiện nay
đã không khách quan khi quy kết, đồng hóa, do định kiến chính trị và cũng do
chưa từng thâm nhập vào sự đa dạng, phong phú của các dòng nhạc Miền Nam thời
chiến. Do hoàn cảnh khách quan tác động trực tiếp vào khung nhìn, tầm nhìn,
trước hết và cụ thể là ở đâu cũng thấy bóng dáng người lính trong thời ly loạn
nên hầu hết các nhạc sĩ miền Nam thời đó đều có bài hát về lính, tuy số lượng
ca khúc, giá trị tư tưởng - nghệ thuật, quan điểm chính trị, không gian nghệ
thuật trong từng ca khúc, từng tác giả có khác nhau. Nhiều nhạc phẩm viết về
người lính nhưng không phải ca ngợi họ mà qua đó nói lên tâm tư của con người
trước cuộc chiến, thân phận con người trong chiến tranh. Hoặc do đề tài thời
thượng của người lính, nên có nhạc sĩ viết về lính vô tình phục vụ cho chính
sách dân vận của chế độ. Hoặc viết ra do mối ân tình riêng sâu đậm với một con
người vừa khuất, mà người ấy là nhân vật có vai vế trong quân lực VNCH. Thậm chí, cả nhạc sĩ
phản chiến hàng đầu là Trịnh Công Sơn cũng có bài hát về lính: Cho một
người vừa nằm xuống viết về một người bạn của nhạc sĩ là đại tá không
quân VNCH Lưu Kim Cương tử trận trong trận Mậu Thân đợt 2.
Nhạc về lính lại có 2 dạng: một
là kích động nhạc, hai là tình ca. Kích động nhạc thường viết
theo thể điệu rock
và twist - một biến thể của rock có giai điệu mạnh,
giậm giựt, “giật
gân", sôi động, khi biểu diễn ca sĩ kết hợp hát với “nhảy twist”. Các nhạc sĩ viết về lính theo loại nhạc nầy có: Anh Thy, Hùng Cường…: Anh là lính đa tình, Hờn anh
giận em, Lính mà em, Đám cưới nhà binh, Thiên thần Mũ đỏ, Người yêu lý tưởng… Đặc
biệt với tựa là Lính mà em có đến 2 bài hát khác
nhau của Anh Thy và Y Vân.
Lính mà em gốc là của nhạc
sĩ Y Vân, phổ thơ Lý
Thuỵ Ý, viết theo điệu slow rock, rồi năm 1968 Anh Thy đặt lời khác
theo điệu chachacha kích động cho binh chủng hải quân VNCH.
Loại nhạc lính thứ hai là tình ca về lính, được viết trên những giai điệu, đơn giản, chậm buồn,
đều đều, mang âm hưởng dân ca, nhẹ nhàng của
boléro, rumba, ballade…, phổ biến nhất là bolero được hát bằng giọng thứ
quãng âm trung hoặc trầm chậm. Nói rõ hơn
đó chính là nhạc vàng viết về đề tài người lính VNCH. Có rất nhiều nhạc sĩ với
rất nhiều ca khúc thuộc loại nhạc nầy: Phạm Đình Chương với Lá thư người chiến sĩ, Anh đi chiến dịch…; Phạm Thế Mỹ với Những ngày xưa thân ái, Trăng tàn trên hè
phố; Y Vân với Bức thư trên lô
cốt, Đi bên lính, Lính du xuân, Người lính yêu em, Thăm lính; Trúc
Phương với 24 giờ phép, Tình người
chiến binh, Trên bốn vùng chiến thuật…; Lam Phương với Bức tâm thư, Tình anh lính chiến, Chiều hành
quân, Rừng xưa, Chuyện buồn ngày xuân; Thanh Sơn với Lính tâm sự, Ngày phép của lính, Tâm sự hai giờ gác; Lê Dinh - Minh Kỳ với Mười ba tuổi lính, Cánh thiệp đầu xuân; Trầm
Tử Thiêng với Quân trường vang tiếng gọi, Đêm di hành, Mưa trên poncho; Diên
An với Đừng gọi anh bằng chú; Châu Kỳ - Hồ Đình Phương với Con
đường xưa em đi; Lê Dinh với
Sau ngày hành quân, Phó Quốc Lân với Anh tôi …
Nổi bật hơn cả là Trần Thiện Thanh với phân nửa trong 100
tình ca của ông là ca khúc về lính, trong đó nhiều bài viết về các sĩ quan VNCH
tử trận, được ký dưới nhiều bút hiệu
khác nhau: Trần Thiện Thanh, Trần Thiện Thanh Toàn, Trần Thiện Thanh Tâm,
Thanh Trân Trần Thị, Anh Chương, Nhật Trường… như: Tâm sự người lính trẻ, Bay lên
cao, Bắc Đẩu, Anh về với em (1964), Người yêu của lính
(1965), Tuyết trắng (1966), Tạ từ trong đêm (1966), Tình
thư của lính (1968), Chị Ba Hàng Xanh (1968): Rừng
lá thấp (1968), Anh không chết đâu em(1971), Người
ở lại Charlie (1972), Chuyện tình Mộng Thường (1972)…
Đặc biệt, Anh Thy là nhạc sĩ chuyên viết
về chủ đề Hải quân Việt Nam Cộng hòa với khoảng
20 ca khúc. Ngay cả tựa đề bài hát cũng đã thể hiện rõ chủ đề rồi: Hải
quân Việt Nam, Biển tuyết, Hải đăng (viết chung với Đài Phương Trang), Hoa biển, Một đêm hải hành (viết
chung với Nguyễn Vũ), Tâm tình người lính thuỷ… Trong đó,
bài Hoa
biển có một xuất xứ rất lạ lùng khi có đến 3 đồng tác giả: đây là
một bản nhạc chỉ có giai điệu, chưa viết lời của Trần Thiện Thanh được Anh Thy dựa vào ý thơ của Vũ Thất viết
lời và xuất bản lần đầu vào năm 1965.
Phạm Duy cũng đóng góp vào nhiều ca khúc về đề
tài Không quân VNCH: Điệp khúc Trần Thế Vinh, Vùng trời mang tên ta, Lên trời, Trong bão
cát mưa rừng, Huyền sử ca
một người mang tên Quốc … và một tình khúc về lính được phổ biến rất
rộng rãi: Kỷ vật cho em (thơ Linh Phương)…
Dòng nhạc tâm lý chiến được quảng bá rộng rãi
nhờ các phương tiện truyền thông của chế độ. Ngoài các đài truyền hình, phát
thanh Sài Gòn và khu vực như Huế, Cần Thơ, chính phủ còn lập ra các đài phát
thanh ở Trung ương: Quân đội, Tự do…
Chính quyền Washington còn thông qua USAID
tài trợ ngân sách cho International
Voluntary Service - IVS, lập một
loạt đài phát thanh chống Cộng: Mẹ Việt
Nam, Gươm thiêng ái quốc, Cờ Đỏ, Sao Đỏ, Đài Tiếng nói Việt Nam "dỏm"… Các đài nầy có ban văn
nghệ ưu tiên phát các chương trình văn nghệ chống Cộng.
Lê Thiên minh Khoa
(Trích trong cuốn sách “9 THẬP KỶ
CA KHÚC TÂN NHẠC VIỆT NAM” - nghiên cứu & nhận định của Lê Thiên
Minh Khoa - sắp xuất
bản, 2018).
Ai ngụy ai chân thời gian đã trả lời tất cả
Trả lờiXóa