Trời chưa sáng hẳn, ông Bảy đã thức giấc như
mọi ngày. Mò mẫm lấy cái kiếng ở đầu giường, ông mang vào rồi ngồi thừ ra nghe
những âm thanh xào xạc quanh khu vườn. Tiếng cá quẫy rời rạc mé ao, tiếng lá
chuối cọ vào nhau buồn tẻ, tiếng ếch nhái râm ran… Ngôi nhà lớn chưa sáng ánh
đèn. Năm rồi, khi ông đòi ra đây cho yên tĩnh thì Hưng, con trai ông khăng
khăng không chịu với lý do: “Ba lên đây sống với con thì bổn phận con phải lo
cho ba đầy đủ. Còn đây chỉ như cái chòi, cái phòng nhỏ trưa trưa nằm hóng mát
chơi. Người ta không hiểu, chê cười con nuôi cha mà đẩy ra ngoài này, đêm hôm
bệnh hoạn thì sao?”. Hiểu lòng con, ông cười cho nó an tâm: “Cả đời ba sống với
ruộng vườn, tuổi già cũng mong có vậy. Ba thích ở ngoài vườn mát mẻ và tụi con
đỡ bận bịu, tánh ba con biết!”. Con nhỏ út lên thăm có ý hờn anh nó, ông giải
thích mấy lượt mới chịu. Có bốn người con, hai trai hai gái, giờ chỉ còn ba
đứa. Thằng Hai hy sinh hồi chiến tranh, lâu lâu ông lại nhớ cồn cào, có đêm nằm
mơ thấy lại nó, trẻ trung sôi nổi, đầy nhiệt huyết. Mới đó đã mấy chục năm…
Đàng đông ửng hồng một chút, ông Bảy bước
xuống giường ngồi vào cái ghế mây cũ. Hớp ngụm trà nguội thấm giọng, ông chăm chú
nhìn lên khoảng không nhờ nhờ những chấm đen lượn từng bầy. Đàn cò, vạc bên vườn
cò Bằng Lăng đi kiếm ăn sớm đó mà. Chợt nhớ miên man ông Chín bên cù lao kém
mình bốn tuổi, mà tâm đắc lắm. Lên đây cho con nuôi dưỡng, lạ đất lạ người, có
lẽ chỉ ông Chín thấu hiểu tâm trạng người bạn già xa xứ. Hồi còn khỏe, ngồi xe
ôm từ đây ra chợ Thốt Nốt ba ngàn đồng bạc, qua phà ngàn rưỡi, chống gậy đi vài
trăm thước là tới nhà ông Chín. Đi chơi đâu Hưng còn lo lắng, qua ông Chín thì
nó an tâm: “Ba cứ ở chơi nhà chú Chín mấy bữa cũng được, chừng về nhắn con rước!”.
Bàn chuyện thi phú, điển tích, giai thoại danh nhân… rất hợp ý nhau. Người già
hay hoài niệm quá khứ. Mươi, mười lăm năm trước, cù lao Thạnh Lộc này trồng cam
quít nhiều lắm. Mùa giáp Tết, đi vòng vèo qua vừa khỏi bụi tầm vông ngã ba đã
thấy cam quít vàng ửng lắt lẽo trên cành, sướng mắt. Bây giờ chạy theo kinh tế
thị trường, họ dần đốn bỏ để trồng mía đường cung cấp các lò, khói bụi chua lè.
Rồi thi nhau mở cây xăng dầu bè nổi phục vụ ghe tàu qua lại, có ăn hơn. Trước
nhà ông Chín còn giữ lại cây quít đường già cỗi như một niềm ủi an lạc lõng.
Mấy đứa con muốn đốn cho rộng sân mở quán cà phê. Ông chỉ nói một câu: “Đợi tao
chết, bây làm gì thì làm!”. Tháng mười một ông Chín bệnh mất, tháng chạp cúng
tới thất thứ ba, tụi con ông đốn cây quít thiệt. Ông Bảy qua rờ rẫm gốc quít
khô khốc, bùi ngùi thất thiểu về, lòng nghe buồn quá đổi. Ông cho rằng cây có
hồn cây, đá có hồn đá. Hai chục năm trước ông có dịp đi Đà Lạt, lúc ngồi uống
cà phê ở đường lên chùa Tàu tình cờ có biết một ông già chuyên lang thang nhặt
đá. Đều đặn mỗi ngày, trừ lúc trái gió trở trời, sáng nào ông ta cũng lặn lội
lưng đồi dốc núi tìm những hòn đá hình thù kỳ dị mang về chất đầy góc sân nhà.
Mấy chú xe ôm quen mặt thương ông, cứ nhắc chừng để chở giúp. Hôm nọ, mấy đứa
trẻ chơi Đà Lạt về, ông Bảy buột miệng hỏi thăm ông già nhặt đá, có đứa tưng
tửng trả lời: “Tụi con có gặp ông ấy, tóc râu bạc trắng, chống gậy đi không
vững. Chẳng hiểu nhặt ba cục đá vô tri đó làm gì cho khổ thân… Đúng là tự đày
đọa mình!”. Ông Bảy quay đi, tự dưng mà lòng buồn rười rượi. Không phải đày đọa
mình đâu, ông ấy sung sướng bằng cảm giác mắt nhìn, tay vuốt ve thớ đá thô ráp,
chia sẻ hơi thở tâm linh nguyên thủy hòa cùng nhịp đập trái tim đấy thôi…
Lần có người ở quê lên chơi, cho ông Bảy chục
hột gấc. Ông tưng tiu xới đất trồng cạnh căn chòi, lên được ba dây. Thằng Hưng
làm giàn cho dây gấc bò, ra hoa ra trái tròn trỉnh cỡ miệng chén, lủng lẳng màu
vàng cam chen màu xanh lá mượt mà. Nằm nghỉ trưa nghe loáng thoáng vợ Hưng dặn con
ra vườn tránh chỗ rậm rạp hay có rắn., ông đắn đo, rồi ba hôm sau cắt trụi dây
gấc. Nói nào ngay, vợ chồng Hưng tuy ít gần gũi chuyện trò, nhưng lo cho ông
không thiếu thứ gì. Cơm nước, trà bánh tươm tất, ho hen sơ sơ là kêu y tá tới
liền. Chuyện già trẻ tâm tư tình cảm thể hiện khác biệt là lẽ tất nhiên, ông
không để bụng. Hai đứa con ở quê nghèo quá, hồi nẵm nghe thằng Hưng đề nghị
rước cha về nuôi thì chúng nó khóc vì thương cha, thương mình bất lực để cha
thiếu thốn. Ông Bảy về đây sống mới đó mà gần năm năm. Tết này tám bảy, thọ dữ
quá chớ bộ…
Mặt trời lên cao lưng chừng bụi trúc, Hưng
bưng cái mâm trên có tô cháo thịt, ấm trà, keo đường cát… ra đặt lên bàn. Anh
tần ngần ngó cha:
- Ba ngủ ngon giấc không? Vợ con dặn ba ráng
ăn thêm một chút, bữa nào cũng bỏ mứa gần nửa tô…
Ông Bảy chợt nhìn con như lạ lẫm, miệng cười
móm xọm:
- Chà… tóc mày cũng bạc bộn bộn rồi!
Hưng cười theo cha, giọng cảm xúc:
- Năm mươi mấy còn gì nữa ba! Anh Hai còn sống
cũng ngoài sáu mươi…
Bất giác hai cha con cùng nhìn ra khoảng đất
trống, ở đó có cây sơ ri tàng nhánh xanh mướt rộng cỡ hai vòng tay ôm, mềm mại
đong đưa theo làn gió nhẹ. Hỗm rày thấy hơi chựng lại, hổng chừng sắp ra bông.
Năm kia, mấy đứa cháu cố ở Sài Gòn về chơi, lúc đi chợ Thốt Nốt mua về mớ sơ ri
ăn ngon lành, hỏi kỹ thì ra là từ Gò Công chở lên đây bàn. Ông Bảy cảm động
trong lòng, lấy ít trái để ở bàn nước, để tới héo không ăn. Ông biểu riêng
thằng Hưng nhắn ai có lên mua giùm ít nhánh sơ ri cho ông. Dịp rằm, dì Chín ở
quê đi cúng vía Bà Châu Đốc, ngang qua gởi hai nhánh sơ ri bó giống ở Bình
Nghị, thêm ký sơ ri khô cho Hưng ngâm rượu. Nài nĩ trả tiền, dì không lấy mà
còn làm mặt giận. Mười mấy năm trước lúc ông còn dưới quê, nghe đâu mới thành
lập nhà máy khai thác, chế biến cơm dừa xuất khẩu nơi tỉnh bạn. Họ cho người xuống
tận xã Bình Nghị, Bình Ân… vận động bà con đốn bỏ cây sơ ri để trồng dừa, hứa
hỗ trợ vốn cùng phân bón. Ông Bảy không đồng tình và cho rằng cây sơ ri là đặc
sản địa phương, sớm muộn gì nó cũng sẽ có vị trí cao trên thương trường. Nhưng
vì cái lợi trước mắt, hai tháng sau các vườn sơ ri bị chặt bỏ không thương
tiếc, cành nhánh rũ rượi phơi nắng ruồng rẫy, trông mà xót ruột. Như dự đoán
của ông Bảy, được năm, sáu năm thì chương trình trồng dừa thất bại từ phía nhà
máy và tự thân cây dừa cho năng suất kém. Bà con quay lại trồng sơ ri, phát
triển sang các vùng lân cận đất đai phù hợp. Cơ sở thu mua, sơ chế… mọc ra, thu
hút lao động địa phương, bà con sống tương đối khỏe. Cây sơ ri có hậu như vậy,
ông mừng!
Hai nhánh sơ ri ông Bảy trồng, chăm sóc cẩn
thận vẫn héo chết một nhánh. Ông lo thổ nhưỡng nơi đây không hợp loại cây này,
chớ ăn mận ăn xoài thảy hột xuống đất lên cây cho trái ào ào. Chắc cây sơ ri ưa
đất có hơi mặn miệt biển, tuy rằng đất miền Tây mầu mỡ ngọt lành thiệt, nhưng e
nó khó quen. Nhánh còn lại ra mấy tược nhỏ, ông mừng kêu thằng Hưng ra coi.
Niềm vui của ông gắn liền với cây sơ ri như nỗi ám ảnh thỉnh thoảng chập chờn
trong mộng mị. Có lẽ Hưng hiểu, nhưng không muốn nói ra cho cha thêm buồn…
Hai Chấn, con trai lớn ông Bảy vào du kích xã,
tham gia trực tiếp chiến đấu chính thức vào năm sáu tám. Sau lên cấp đại đội,
có lúc tăng cường qua Bến Tre mấy tháng liền. Ông bằng lòng với thằng con gan
góc, có chí hướng và ông vẫn một câu trả lời không thay đổi mỗi khi bị gọi lên
đồn cảnh sát tra hạch: “Mấy ông cứ tìm nó mà hỏi. Nó lớn thì tự quyền quyết
định, tôi không can thiệp vào!”. Thời gian đó, thằng Hưng trốn bắt quân dịch,
đi làm mướn cho chành gạo Chợ Lớn. Ông sống nghèo túng mà an nhiên, khí khái,
tự hào với đứa con trai lớn biết trách nhiệm kề vai gánh vác việc nước như bao
thanh niên khác. Nghe bà con rỉ tai tin tức thằng Chấn về hoạt động gần đây,
ông mừng mà lo. Gần Tết năm bảy hai, nó về thăm nhà khoảng hai giờ sáng. Nhớ
con mà ông hổng dám khêu cao bấc đèn nhìn cho tận mặt. Cha con ôm nhau hồi lâu,
cảm động hít thở hơi hám thương yêu quen thuộc. Chấn nắn nắn vai cha, thì thào:
“Ba đừng quá lo cho con… Tình hình này không lâu đâu. Ráng giữ gìn sức khỏe, ba
gầy quá!”. Xúc cho con túi gạo, gói mớ tép rang mặn bỏ vào ba lô, ông nghẹn
ngào: “Con đi liền đi… Gần sáng tụi biệt kích hay phục ở mé kinh. Ba còn sống
khỏe… chờ con!”. Hé cửa sau quan sát một lúc, ông đẩy nhẹ con băng mình vào
bóng tối. Trở vào, ông thao thức tới sáng, trái tim hồi hộp khó thở vì sợ phải
nghe những loạt súng nổ đanh gọn rợn người. Lần chia tay ấy là lần cuối. Hai
tháng sau, trận đánh đồn Bà Từ bên cù lao vang dội tận đất liền. Đêm ấy có
người liên lạc báo tin Chấn hy sinh, xác còn kẹt trong vòng rào không lấy được.
Ông Bảy điếng người mà không rơi giọt lệ. Sáng sớm, ông bán ba chỉ vàng dành
dụm, bán luôn đôi bông cười mẹ thằng Chấn để lại trước khi mất. Xuống đò qua cù
lao, nhìn xác con mình tả tơi bùn đất nằm phơi nắng gió mấy ngày, lòng ông thắt
lại. Gặp ngay thằng đồn trưởng, ông Bảy nhẫn nhục chắp tay xin đem xác con về
chôn cất. Xấp tiền dày cộm đủ sức sai khiến cái đầu hắn gật ngay. Ông tẩn liệm
tại chỗ, chờ con nước chiều thuê chiếc đò chở về nhà, hơn nửa đêm. Gọi vài
người thân cận giúp đào cái huyệt sau vườn, giữa hai gốc sơ ri, ông đặt Hai
Chấn yên nghỉ ở đó. Tuổi thơ nó lẽo đẽo theo sau ông vào vườn sơ ri, cơm áo học
hành cho nó cũng từ những trái sơ ri. Bây giờ bóng mát cây sơ ri thầm lặng chở
che thân xác, hương hồn nó chắc cũng thỏa nguyện rồi. Ngày đất nước giải phóng,
đồng đội Chấn lần lượt tới thăm mộ, bùi ngùi thắp nén nhang trước di ảnh người
bạn chiến đấu anh dũng, kiên cường…
Ông Bảy giờ yếu lắm, cây sơ ri vẫn chưa chịu
trổ bông cho dù ông chăm sóc hàng ngày, ngỡ tình người với cây là một. Lúc hơi
khỏe, ông xuống giường chống gậy lần mò lại thăm cây, vuốt ve từng chùm lá mát
rượi. Ông biểu Hưng hứa mấy lần là có làm sao cũng không được phá bỏ cây sơ ri.
Rồi tới việc hai đứa con gái ở quê lên thăm, nói giờ cuộc sống đỡ đỡ và mong
muốn rước cha về. Ông biết ý tụi nó lo ông chết chôn đây xa quê, xa mẹ nó, xa
anh Hai nó thì đau xót lắm. “Ừ… chơi vài bữa rồi ba tính!”. Chiều mát, ông kêu
Hưng ra nói chuyện bên gốc sơ ri. Hai cha con bàn bạc chuyện ông trở về quê,
thằng Hưng tủi buồn rưng rưng nước mắt. Lặng lẽ hồi lâu, ông quờ bàn tay xương
xẩu vỗ đầu con như hồi nhỏ: “Mày bào hiếu cho ba mấy năm nay là được rồi… Đừng
băn khoăn chi cho mệt trí… con ơi!”…
Thêm một ngày nữa, ông thầm nói, thầm nhắn nhủ
biết bao điều với cây sơ ri. Ông thấy như mình có lỗi đưa nó ly hương, rồi bỏ
cù bơ cù bất, không nán đợi được tới ngày trưởng thành. Vợ Hưng soạn sành, gói
ghém thuốc tây, dầu nóng, bánh trà… “cho ba dùng, cứ nửa tháng anh chị gởi phụ
các em chút tiền…”. Hai con gái ông cười ngượng nghịu gom một bao quần áo cũ
mang về, không dưng mà ông cũng động lòng thương cảm. Ôi! Tuổi già gần đất xa
trời hay suy nghĩ vơ vẩn đâu đâu! Sáng sớm xe lô tới rước tận nhà. Chú lơ cầm
gậy, xốc ông lên ghế ngồi, cẩn thận sửa ngay ngắn cái khăn lông choàng cổ. Thấy
vợ chồng Hưng đứng nhìn nghẹn ngào, ông Bảy gượng cười: “Bây lo làm ăn cho ba
an tâm, hưởn hưởn về thăm ba. Thằng Hưng nhớ ngó chừng… cây sơ ri nghen con!”.
… Về quê hơn tháng, ông Bảy mất đột ngột. Trời
sẩm tối, mưa lâm râm, chẳng biết điều chi thôi thúc mà ông dò dẫm ra vườn, rồi
quỵ luôn. Hai người con hớt hãi tìm cha, gặp ông đã cứng hàm gần hôn mê, bàn
tay co quắp chỉ về hướng mộ Hai Chấn giữa hai cây sơ ri. Vợ chồng Hưng báo tin
các con ở xa cùng về chịu tang, còn anh nán lại cho xong buổi cúng thất đầu mới
quay lại nhà. Sớm mai ra vườn ngó chỗ cha ăn ngủ, ngó bầy cò vạc lũ lượt bay
kiếm ăn, lòng Hưng buồn thê thiết. Chừng tới thăm cây sơ ri, Hưng sững sờ, tê
tái. Từ trong các nách lá nhú ra từng chùm bông nhỏ, phớt hồng thanh khiết. Cây
sơ ri ly hương của ông Bảy cuối cùng vẫn ra hoa, kết quả bằng sức sống mạnh mẽ,
tiềm tàng nguồn cội từ quê mẹ, đất biển mặn mòi…
Nguyễn Kim
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét