Thực ra, thời tiền chiến
(trước 1946), tồn tại 3 loại nhạc: nhạc đỏ
(nhạc cách mạng), nhạc hùng (hùng
ca) và nhạc tiền chiến (nhạc trữ
tình). Nhưng người ta quen dùng cụm từ “nhạc
tiền chiến” để chỉ một dòng tân nhạc Việt Nam chiếm ưu
thế trong giai đoạn nầy, mang âm hưởng trữ tình lãng mạn với nội dung về tình
yêu lứa đôi, quê hương và lời ca giàu chất văn học xuất hiện vào nửa sau thập
niên 1930, trước khi
nổ ra cuộc kháng chiến chống Pháp (1946 –1954).
Về sau, khái niệm này mở rộng, bao gồm một số sáng tác trong chiến tranh
(1946 - 1954) và cả sau 1954 đối với một số nhạc phẩm ở
miền Nam có phong cách trữ tình lãng mạn và lời ca giàu chất văn học... như
dòng nhạc tiền chiến 1930 - 1945.
Đặc biệt, nhiều NS kháng chiến trong thời 9 năm vẫn tiếp tục viết các ca
khúc lãng mạng và được xếp vào dòng nhạc tiền
chiến như: Lời người ra đi,
Sơn nữ ca của Trần Hoàn, Ngày về của Hoàng Giác, Thiên
thai, Suối mơ của Văn Cao, Dư âm của Nguyễn Văn Tý, Tiếng hát quay tơ của Tử Phác, Nụ cười sơn cước của Tô Hải, Tình
quê hương của Việt Lang, Bên cầu biên giới, Thiên thai, Cây đàn bỏ quên, Tình kỹ nữ, Tiếng thu (thơ Lưu Trọng Lư) của Phạm Duy, Đoàn Chuẩn với Ánh trăng mùa thu (1947 - ca khúc đầu
tay), Tình nghệ sĩ (1947), Đường về Việt Bắc (1948), Lá thư (1949) ...
Cũng trong 9 năm, nhiều nhạc sĩ ở vùng đô
thị cũng viết ca khúc theo dòng nhạc tiền
chiến như: Văn Giảng dưới
bút danh Thông Đạt viết Ai Về Sông Tương (1949). Võ Đức Thu với Mưa đêm thu, Nhớ người xa vắng;
Nguyễn Hữu Ba với Sám hối, Xuân xuân (1947);
Văn Phụng với Trăng sơn cước (1949 - lời Văn Khôi), Lam Phương với Chiều thu ấy (1952 - lúc mới
15 tuổi); Lê Trọng Nguyễn với Nắng
chiều (1952); Lê Hữu Mục với Hẹn một ngày về; Phạm Duy
viết Đàn tôi, Nụ
tầm xuân (phổ ca dao), Tiếng
sáo thiên thai (thơ Thế Lữ),
Tình ca, Tình hoài hương (1952), Thuyền viễn xứ, Viễn du, Hẹn hò (1954); Hoàng Giác với Lỗi cung đàn, Quê hương, Hương lúa đồng quê,
Bóng ngày qua, Cô hái hoa, Quê hương; Hùng Lân với Vườn xuân, Hận Trương Chi, Hè về, Cô gái Việt, Mùa hợp
tấu, Ca xuân hẹn ước, Luống cầy mạch sống, Nhớ rừng, Sầu lữ thứ, Tơ vương, Xóm
nghèo; Phạm Đình
Chương với Khúc giao duyên, Được mùa; Đoàn Chuẩn với Thu quyến rũ (1950), Chuyển
bến (1952), Gửi gió cho mây ngàn bay (1952), Cánh hoa duyên kiếp (hay Dạ
lan hương - 1953), Lá đổ muôn chiều (1954); Văn Phụng với Ô! Mê ly (1948), Bóng người đi (lời Hoài Linh), Trăng sơn cước (1949-
lời Văn Khôi), Thuyền xưa bến
cũ; Dương Thiệu Tước
với Đêm
tàn bến Ngự (1946), Kiếp hoa, Áng mây
chiều, Nhạc ngày xanh, Xuân mới, Thuyền mơ; Hoàng Trọng với Nhạc sầu tương tư,
Gió mùa xuân tới, Dừng bước giang hồ (1953 - lời Quang Khải), Phạm Mạnh Cương với Nhạc chiều quê, Màu thời gian (1951 - thơ Đoàn Phú Tứ), Thu ca (1953); Cung Tiến với Hoài cảm (1952 - viết lúc mới 14 tuổi),
Thu
vàng (1953 - 15 tuổi); Lâm Tuyền với Tơ sầu (ca khúc đầu tay), Tiếng thời gian, Hình ảnh một buổi chiều,
Khúc nhạc ly hương, Tiếng thời gian (lời Dạ Chung, đạo diễn nổi tiếng Hoàng Vĩnh
Lộc, anh ruột của ông). Ở Huế, Lê Mộng Nguyên viết Mùa lúa mới, Vó ngựa giang hồ (1948),
Trăng mờ bên suối, Một chiều
thương nhớ, Trọng Thủy Mỵ Châu, Chiều thu, Mưa Huế (1949),
Hoàng Hoa thôn, Bài thơ Huế, Cô gái Huế, Về chơi thôn Vỹ Dạ, Đôi mắt nhung (1950).
Qua Pháp, ông viết Mơ Đà Lạt, Ly hương, Nhớ Huế (1950), Bên dòng sông Seine, Xuân tha
hương, Lá thư cho mẹ, Trời Âu (1951)…
Ở Miền Nam sau năm 1954, nhiều nhạc sĩ
như Hoàng Trọng, Lê Thương, Phạm Duy, Đoàn
Chuẩn - Từ Linh... và những nhạc sĩ trẻ hơn như Văn Phụng, Cung Tiến, Phạm Mạnh Cương, Phạm Đình Chương ... vẫn tiếp tục dòng nhạc tiền chiến.
Có thể kể đến những ca khúc của họ vẫn được xếp chung vào dòng nhạc tiền chiến
như: Ngàn thu áo tím, Lạnh lùng, Bạn
lòng, Mộng lành, Tiễn bước sang ngang của Hoàng Trọng; Mộng dưới hoa, Trường ca Hội trùng dương, Đôi mắt người Sơn Tây của Phạm Đình Chương; Hương
xưa, Hương xuân của Cung Tiến,
Các bản nhạc tiền
chiến thường theo điệu Valse, Tango, Slow Waltz, Boston, Blues, March, một số
là các trường ca, hay phong cách bán cổ điển. Hầu hết các ca khúc tiền chiến
thuộc dòng thính phòng. Dòng nhạc tình khúc ở miền Nam sau này cũng ảnh hưởng của
dòng tiền chiến nhưng thường theo điệu Slow Rock, Slow Ballad, Slow Fox, trong
khi nhạc đỏ nhiều bài cũng ảnh hưởng
của nhạc tiền chiến về giai điệu.
Những nhạc sĩ tiêu biểu của
dòng nhạc tiền chiến: Đặng Thế
Phong (mất lúc hơn 20 tuồi), Văn Cao, Lê Thương, Nguyễn Văn Thương, Dương
Thiệu Tước, Phạm Duy, Hoàng Quý, Doãn Mẫn, Nguyễn Đình Phúc, Hoàng Trọng, Bùi Công Kỳ, Hoàng Giác, Lê Yên, Nguyễn Thiện
Tơ, Tô Vũ, Văn Chung, Nguyễn Xuân Khoát, Nguyễn Mỹ Ca...
Các ca
khúc tiêu biểu như Đêm thu (1937),
Giọt mưa thu (lúc đầu tên là Vạn Cổ sầu), Con thuyền không bến của Đặng Thế
Phong, Trên sông Hương (1936 - lúc 17 tuổi) Đêm đông (1940), Bướm hoa (1942), Mưa thu của Nguyễn Văn Thương, Cô hái mơ (thơ Nguyễn Bính - 1942 - ca khúc đầu tay)
của Phạm Duy, Xuân năm xưa (1936), Tiếng đàn âm thầm (1937), Trên sông Dương Tử, Thu trên đảo Kinh
Châu, Đêm tàn bến Ngự, Hòn Vọng Phu (1945) của Lê
Thương, Lời du tử (1943), Cô lái đò (thơ Nguyễn Bính) của
Nguyễn Đình Phúc, Ca khúc ban chiều, Trên thuyền hoa, Bóng ai qua thềm của Văn
Chung; Đêm trăng (1938 - ca khúc đầu tay - lúc 16 tuổi). Tiếng đàn tôi, một trong những bản Tango VN đầu tiên,
Một thuở yêu đàn của Hoàng
Trọng; Sao hoa chóng tàn, Tiếng hát
đêm thu, Gió thu, Một buổi chiều mơ, Bến yêu đương, Từ đâu tiếng tơ, Hương cố
nhân, Nhạc chiều, Gió khơi xa, Biệt ly (1939) của
Doãn Mẫn, Con thuyền xa bến của
Lưu Bách Thụ, Buồn tàn thu (1939 - lúc 16 tuổi), Thiên thai (1941), Bến xuân, Về đồng quê, Trương Chi của Văn Cao, Bẽ bàng, Xuân nghệ sĩ hành khúc, Ngựa phi đường xa, Vườn xuân của
Lê Yên, Bình minh (1938- lời Thế Lữ), Mây trên cao, Hồn Xuân
(thơ Thế Lữ), Màu thời gian (thơ
Đoàn Phú Tứ) của Nguyễn Xuân Khoát, Tiếng xưa, Đêm tàn bến ngự của Dương Thiệu Tước, Dạ khúc (lời Hoàng Mai Lưu) của Nguyễn Mỹ Ca, Ngày xưa của Tô Vũ, Trầu cau của Phan Huỳnh Điểu, Cô hàng cà phê, Khúc ca mùa hè, Anh còn cây đàn của Canh Thân, Mơ
hoa của Hoàng Giác, Nhớ
quê hương của
Phạm Ngữ, Giáo đường im
bóng của Nguyễn Thiện
Tơ, Tiếng còi trong sương đêm (viết năm 1944, khi đang làm nhạc công một phòng trà ở
Vũng Tàu, và được tác giả trình bày trong buổi lễ mit-tinh giành chính quyền ở
Bà Rịa, sáng 25.8.1945 tại Nhà Tròn, chứ
không phải viết khi đã tham gia kháng chiến như thông tin từ nhiều nhà nghiên
cứu) của Lê Trực (tức Hoàng Việt sau nầy), Xuân và tuổi trẻ (lời Thế Lữ), Xuân sắc quê hương của La Hối, Tú Uyên, Chùa Hương, Dưới bóng thông xanh, Chiều xuân, Chiều quê, Nắng tươi và Cô láng giềng, một ca khúc
trữ tình bất hủ của Hoàng Quý…
(Mời xem tiếp Kỳ 2:
Nhạc hùng và Nhạc đỏ tiền chiến).
Lê Thiên Minh Khoa
(Trích
trong cuốn sách “9 THẬP KỶ CA KHÚC TÂN NHẠCVIỆT NAM” - nghiên
cứu & nhận định của Lê Thiên Minh Khoa - sắp xuất bản,
2018).
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét