
Chư Pao ai oán hờn trong gió/ Mỗi chiếc khăn tang một tấc đường. Không hiểu sao, mỗi lần liên tưởng về
Lâm Hảo Dũng, nỗi buồn rười rượi phủ trùm lên trái tim tôi, là mỗi lần hiện về
hai câu thơ oan nghiệt đó. Không phải ở đây chỉ là một sự rung động chân
phương, nghiệt ngã thẩm thấu trong một không gian vàng bay ngơ ngác, phủ trùm
tang tóc suốt ấn tượng chiêu hồn, đang mọc nấm hoang dại trên con đường sử của
quê hương. Mà còn đậm nét nhân bản, tàn bạo phủ chụp xuống kiếp người, kéo dài
dằng dặc định kiếp của hơn mấy ngàn năm qua.
Bản chất tôi, thường vô tình quá đổi
với cuộc sống đời thường, suốt đời lặng lẽ đi vào ngõ vắng văn nghệ. Tôi chưa hề
thuộc bất cứ một bài thơ nào, dù thơ tôi hay của thế nhân. Có lẽ ngoài điểm yếu
đó, phải chăng cũng có cái hay không trùng lấp ngoại lai khi sáng tác? Nhưng với
thơ Lâm Hảo Dũng, không hiểu sao vẫn thường nhỏ giọt quanh trí não tôi, từng
câu thơ loáng thoáng bay nhảy khảm chặt vào từng tế bào. Nhiều lúc, bật tung
lên như có một sự đồng cảm phù thủy, khiến tôi khổ sở có lúc gắng sức đè nén những
câu thơ anh không trôi nổi quanh nỗi nhớ. Tôi vẫn thường xuyên du hành trong
cái tâm không, quầy quả chấp tay sau lưng, tĩnh du cho đầy ngõ trống. Thơ Lâm Hảo
Dũng như một bức tường pha lê dựng lên trước mặt, mặc khí hậu ra sao, vẫn hóa
thân vào nhãn giới tôi và lặng lẽ bước đến...
Từ sơ giao đến ngày
nầy, có lẽ cũng hơn ½ thế kỷ, bắt đầu từ thời gian 1966 dưới tàng cây phượng vĩ
sum suê lung linh sắc hè của trường Nông Lâm Súc Cần Thơ. Đó là ngày đầu tiên
tôi diện kiến nhà thơ. Lâm Hào Dũng đã chính thức từ bỏ bút hiệu Mây Viễn Xứ trở
lại nguyên hình bản lai. Tên thì có thể thay đổi, nhưng thơ Lâm Hảo Dũng vẫn
trung trinh một hướng thơ chuyên biệt. Những năm Mây Viễn Xứ và tôi thường đăng
chung ở nhiều tờ báo đương thời, mà bút hiệu Mây Viễn Xứ lãng bạt không định hướng
của chòm mây lang thang, dù sao khắc ghi nhiều đồng cảm tin yêu của những kẻ
làm thơ cô quạnh chung quanh.
Hướng đi cho thơ, một
phần được thể hiện trong bút hiệu ban đầu, sự diệu vợi lãng du như cánh mây trời
lang thang trôi dạt nửa trong hồn người làm thơ, nửa ký gởi quanh cuộc đời đầy
sương gió. Có thể nói, sự tin yêu Mây Viễn Xứ, ngoài tài hoa từ những vần thơ
man mác, riêng lẻ của riêng nhà thơ, thì bút hiệu cũng gây nhiều thiện cảm cho
những người đa cảm đồng điệu đương thời. Với một nhân dáng thư sinh thanh tú,
Lâm Hảo Dũng bước vào đời bằng hồn thơ lưu xứ, lang bạt phiêu bồng như đám phù
vân. Thanh thoát và mang nặng một hoài niệm vời vợi giữa bản thể và cuộc sống
trôi dạt đời thường. Có lẽ chính vậy, sự đột khởi của tâm và ý giữa sự phù ảo
hư không phiêu bạt, nên bút hiệu Mây Viễn Xứ là bước đầu định vị tâm thức của
người làm thơ.
Thơ Lâm Hảo Dũng
phiêu bạt nhiều trong thi ca, trên các vườn thơ các nhật báo, tạp chí đương thời
thập niên 60-70 thế kỷ trước. Định vị thật sang trọng và bát ngát, nhất là
khuôn mẫu của dòng thơ lục bát. Nên cái hay của Lâm Hảo Dũng là áp dụng tinh
hoa văn hóa sáu tám đặc thù quê hương, sự trầm bổng điêu linh hóa hiện lung
linh trong một hồn thơ dân tộc, đưa khí lực thơ đạt đến cảnh giới tinh túy
phiêu bồng với quan điểm thi ca riêng cõi. Sự rung động trong dòng thơ trong thời
khắc ban đầu đã bước được vào định nghiệp riêng, chẳng phải là một lối đi xuyên
sơn, tâm huyết và độc đạo? Lâm Hào Dũng phiêu bạt trên hồn thơ mình, luân chuyển
kỳ khu ngày càng tinh tế và siêu tuyệt. Chính vậy, trong giai đoạn chín mùi hỏa
hầu được trui luyện thật can trường, bi thống nhất của những năm đầu thập niên
70. Sự trôi dạt tận cùng đất nước trong giai đoạn khốc liệt cuộc chiến trên quê
hương. Nỗi nhà canh cánh mẹ già và đàn em dại, sự ngăn cách giữa tư thân trong
bối cảnh tiêu điều trên bước đường nhà thơ đi qua, khiến dòng thơ Lâm Hảo Dũng
chìm ngấm trong sự rung động tận cùng của trái tim. Ngôn ngữ chỉ là cầu nối của
tâm thức và nhân gian, nên dù sao cũng có một sự hạn hẹp, nhưng dòng thơ bi thống
của Lâm Hảo Dũng lại như tiếng chim chiều vội vã thu không tìm đường xuôi ngược
về tổ ấm, rơi rớt trên những chiếc ráng chiều, những tâm khúc u hoài, mà nhà
thơ cõng trên lưng đi khắp đoạn đường thống thiết băng ngang ....
Năm 1972, khi tuần
báo Khởi Hành mở chuyên mục trao đổi với độc giả, chọn 100 nhà thơ đương thời
được công chúng tin yêu, thì Lâm Hảo Dũng cũng thường xuyên được chọn trong nhiều
bản nhận định đăng tải hàng tuần. Chỉ có điều sự nhận xét thơ Lâm Hảo Dũng
trong dòng thơ hiện hữu, tương đồng với thơ Quang Dũng. Đó là điều góp củi
thành bó, vô cùng dễ dãi trong thưởng ngoạn. Đi vào một chiều hướng văn hóa và
định vị một khuynh hướng, ngoài sự thông thấu công tâm của người nhận định, còn
phải thận trọng và thông thái trên quan điểm phán xét. Thơ Quang Dũng mang hình
thức trưởng giả trong sự khuynh khoái, kiêu hùng, câu thơ sang trọng cách tân
trong giai đoạn tiền chiến, dung hòa giữa trào lưu mới và cũ. Nên sự làm mới
ngôn ngữ và tư tưởng, là điều cần thiết của trí
tuệ, chính vậy thơ Quang Dũng đậm nét trao chuốt bi hùng và trưởng giả. Thơ
Lâm Hảo Dũng hoàn toàn không giống như vậy, không có một sự dung nạp đỗ đồng,
vì dòng thơ Lâm Hảo Dũng chuyển biến từ thái cực của một sự trôi dạt đa cảm, phiêu bạt của vầng mây lưu phương
trong tâm thức, thai nghén từ bọc điều được xé toang ngay từ buổi thiên khai bắt
đầu bước vào ngưỡng cửa thi ca, không có một xấp đặt hậu thiên. Dĩ nhiên, bước
đầu của một tài hoa chân đất khác biệt
cực kỳ với những tâm hồn làm thơ trong tâm sinh lý trưởng giả, hoạch định hướng
tới cho dòng thơ. Thơ Lâm Hảo Dũng quả thật định hình không từ rung động của
trí tuệ mà từ rung động của trái tim,
quầy quả lưu lạc từ hồn mây phiêu bạt đến sự trưởng thành vững chải của một thi
nhân. Một quá trình hóa đá thành vàng, luyện kim trong một hỏa hầu tiệm tiến và
đạt ngộ sau nhiều cuộc hóa thân. Thơ Lâm Hảo Dũng sở dĩ lưu lại lòng người một
cách chân tình, bởi sự chân thật và ngôn ngữ thơ anh, không còn những sáo ngữ
sang trọng, mà là những dòng nước mắt, là máu trái tim, mộc mạc giản dị đầy
nhân bản. Tiếng thống thiết gọi đò của Trần Tế Xương, giữa thương hải biến vi
tang điền, cũng ngơ ngác bi thống như vậy.
Sự bộc phát thơ Lâm
Hảo Dũng từ thập niên 70, trước biến động của đất nước, đất nước của một dân tộc
đã chịu nhiểu nỗi thống khổ ba lần hơn ngàn năm Bắc thuộc, hơn trăm năm thuộc địa
thực dân Tây, mỗi người dân đều triều dâng tâm thức quyết liệt với ngoại xăm
trên mọi hình thức. Văn nghệ sĩ có một hồn người nhạy cảm, sống nhiều nội tâm,
nên thấu rõ bằng trái tim tâm huyết... Từ bởi
chiến tranh hoài sao biết được/ nên đời trai gởi gió sương nuôi hoặc em
khóc dòng sông ta khóc ta/ ngay đi thương sợi khói bên nhà/ ngày đi như thể
không về nữa/ nghe gió rừng xa vọng tiếng ca...Thơ Lâm Hảo Dũng đầy bi thống,
như ký gởi tất cả những hoài niệm của ngày tháng vô định, khi đi cố nhớ hàng cau nhỏ/ một liếp dừa xanh ngọn táo vàng/ ta cũng
hát bài chinh chiến tận...Hình như trong sương gió, ta thấy trùng trùng
hình bóng chinh nhân khoát vội phong sương trên nếp áo, mang theo hồn đất, gió
trăng, vườn xanh ổi chín, làn khói sau hè, tiếng ru buồn của mẹ với hình bóng
còm cõi của mẹ già như khói bên thềm cũ
...đã được nhà thơ nhốt vội vào hồn, cùng với gió trăng làm tàn cuộc tiễn đưa:
Mẹ có mắt
sầu riêng cao chất ngất
Nên hồn
con lạnh lẽo đến bao giờ
Nhà chắc
dột bởi từ khi vắng mặt
Những
thằng con đủ cánh để bay xa
Và dòng
sông thương những hàng rơm mục
Những
hàng cau buồn chết được lòng con
Thuở mẹ
già biết cau còn kết trái
Biết
con còn thấy mẹ lúc hoàng hôn
Như lũ
sáo vu vơ ngoài dậu cũ
Mắt đăm
chiêu ngày nắng mới chang chang
Mẹ vẫn
cứ mồ hôi trên áo vá
Đắp vồng
khoai liếp cải nghĩ mênh mang
Bom đạn
chắc không còn ru mẹ ngủ
Và đàn
em dăm đứa nhởn nhơ cười
Mắt có
xa cho một lần thương nhớ
Hình
bóng con vời vợi cuối chân trời
(Còn
không ngày về)
Nhiều khi, sự vận dụng
chân phương những rung động của con tim hóa thân vào hình từ bóng chữ, chính sự
chân thật như vậy bật tận đáy lòng, nên chất chứa đầy tâm huyết sâu lắng. Trong
vầng thơ Lâm Hào Dũng, người đọc bỗng chợt được đánh động rung chuyển cả tâm
cang. Từ ngàn xưa, những giọt nước mắt đầy cảm thông thường được trích lệ giữa
quan hoài bi thiết của cuộc sống. Thơ Lâm Hảo Dũng tuyệt diệu như bắt chộp được
hỏa hầu của chân tâm, khiến thơ thấm nhập được cảnh giới đầy phong vị của cái chân, trên đoạn đường tử sinh dàn trải lối
đi. Phải chăng đó cũng là chuyện thường tình, bởi hạnh phúc và khổ đau vẫn là cặp
bài trùng thường xuyên va chạm vào nhau, để ngọn lửa nội sinh bừng cháy:
Mai đi
nghe khóc trong hồn đất
Bởi vì:
Đời ta
chinh chiến lãng du rồi
Ngoảnh lại:
Thuở mẹ
già biết cau còn kết trái
Biết
con còn thấy mẹ lúc hoàng hôn
Đạo nghĩa Đông phương
gói trọn trong tiếng kêu bi thiết, chất ngất nhân bản khảm vào tâm huyết sâu lắng
giữa cuộc đời nầy.
Viết tại
Thư trang Quang Hạnh
Nhuận sắc
lần 2 - tháng 7/2019
Ngô
Nguyên Nghiễm
TIỂU SỬ VĂN HỌC LÂM HẢO DŨNG
Nhà thơ Lâm Hảo Dũng sinh ngày 15 tháng 11
năm 1945 tại Bố Thảo,Thuận Hóa,Sóc Trăng.
Cựu học sinh trường Trung học Hoàng Diệu,
Sóc Trăng. Ông là cột trụ của nhóm thơ Cung Thương Miền Nam, gồm những nhà thơ
nổi tiếng trước năm 1975 như Lâm Hảo Dũng, Trần Phù Thế, Lưu Vân, Trần Biên
Thùy, Triệu Ngọc, Nguyễn Lệ Tuân…
Giữa thập niên (19)60' Lâm Hảo Dũng theo học trường Nông Lâm Súc,
Cần Thơ. Tốt nghiệp năm 1966, ông đựợc bổ nhiệm về công tác tại Ty Canh Nông,
Châu Đốc.
Lâm Hảo Dũng nhập ngũ khóa 27 Thủ Đức, ra
trường phục vụ trong ngành Pháo binh, tại Kontum.
Nhà thơ là Hội viên Hội Văn Nghệ Sĩ Quân
Đội.
Trước năm 1975, ông có thơ trên các tạp chí
và tuần báo: Văn, Khởi Hành, Quân Đội, Khai Phá, Tiền Phong …Sau năm 1975, cộng
tác với Làng Văn, Văn, Nắng Mới… và các báo mạng hải ngoại, nhất là Gió O.
Lâm Hảo Dũng học tập cải tạo sau năm 1975,
và năm 1980 ông sang định cư tại Canada.
Tại Canada, ông tiếp tục làm báo và xuất bản nhiều thi phẩm giá trị.
Nhà thơ Lâm Hảo Dũng được giới thiệu trên
nhiều tác phẩm nghiên cứu văn học trong và ngoài nước.
TÁC PHẨM TIÊU BIỂU ĐÃ XUẤT BẢN:
1/ Nhớ Hoa Lại Thắm Bên Đường (thi phẩm, 1970)
2/ Ngày Đi Thương Sợi Khói Bên Nhà (thi phẩm, Khai Phá tháng 4.1975)
3/ Ngày Đi Thương Sợi Khói Bên Nhà (thi phẩm, tái bản Nhân Văn USA 1980)
4/ Tóc Em Dài Em Cài Bông Thiên
Lý (thi phẩm, Làng Văn Canada 1989)
5/ Đi Giữa Thời Tan Nát (thi phẩm, Làng Văn Canada 1989)
6/ Ngàn Dặm Quê Nhà (thi phẩm …)
7/ Năm Xưa Dưới Gốc Bồ Để (thi phẩm…)
8/ Những Bài Thơ Của Tôi (thi phẩm, 2013)
9/ Tôi Vẫn Còn Đi (thi phẩm, Canada 2017)
10/ Thơ Tình Trung Niên (bản thảo)
HIỆN DIỆN TRÊN CÁC TÁC PHẨM NGHIÊN CỨU VĂN
HỌC:
1/ Thơ Văn 90 Tác Giả Văn Nghệ Hải Ngoại 1975 – 1981 (Văn Hữu, 1982)
2/ Thơ Văn Việt Nam Hải Ngoại (Thái Tú Hạp, 1985)
3/ Ngọn Cỏ Khô Trên Thung Lũng Mùa Xuân (Làng Văn Canada,1986)
4/ Hội Tuyển Thi Ca (Thanh Niên, Pháp 1986)
5/ Việt Nam Quê Hương Tôi (Tuyển tập Nhiếp ảnh Lê Quang Xuân, 1994)
6/ 20 Người Viết Tại Canada
(Nắng Mới, 1995)
7/ Thơ Tình Việt Nam Và Thế Giới (Nguyễn Hùng Trương, NXB Thanh Niên
1998)
8/ Thơ Văn Hải Ngoại Năm 2000 (Văn Mới Montréal, 2000)
9/ Thơ Miền Nam Thời Chiến 1 (Trần Hoài Thư, Thư Ấn Quán USA)
10/Tác Giả Tác Phẩm Người Đồng Hành Quanh Tôi, quyển IV (Ngô Nguyên
Nghiễm, NXB Thanh Niên, 2012)
11/ Chân Dung Văn Nghệ Sĩ Qua Góc Nhìn Ngô Nguyên Nghiễm (quyển thượng,
NXB Hội Nhà Văn 2016)
12/ Tác Giả Việt Nam (Lê Bảo Hoàng, Nhân Ảnh USA 2017)
13/ Văn Học Miền Nam 1954- 1975 tập II (Nguyễn Vy Khanh, Nhân Ảnh USA
2017).
 |
Tập thơ LÂM HẢO
DŨNG,
Tranh bìa TRƯƠNG THÀNH VÂN
(NXB Khai Phá –
tháng 04/1975)
|
THƠ LÂM HẢO DŨNG
Ngày Trở
Lại Bồng Sơn
Bụi cũng làm ta cay ánh mắt
Bồng Sơn xa quá-cuối trời xa
Những núi chơ vơ đường quạnh quẽ
Chân đèo Phú Củ nhận không ra?
Ta thương những bóng dừa cô độc
Những tiếng hờn vang bên liếp rau
Sông Lai còn có sầu đưa nước
Để thấy ta buồn muôn kiếp sau
Ta đứng bên cầu xe lửa cũ
Quê em còn cách một dòng sông
Nhớ đêm máu chảy người quên khóc
Em có u buồn trong mắt trong
Ngày ta trở lại đất Bồng Sơn
Em chắc còn in kỷ niệm buồn
Ta đã xa mờ như tiếng hát
Quê em ngày nắng mới bên sông
Nỗi Buồn
Cô Gái Tam Quan
Gió rét nghĩ thương đời lính trận
Chiều qua núi thẳm dốc cheo leo
Em ở quê nhà manh áo rách
Vui buồn gởi trọn mấy hàng cau
Khi đến Tài Lương ngày cuối tháng
Chuyện đời quanh quẩn những đao binh
Thương những mộ sầu ai kín lối
Trải dài theo những mẫu dừa xanh
Em giá buồn chi thời lửa đạn
Nước non là để lũ trai sầu
Bụi có đôi lần cay ánh mắt
Mồ hôi vút mặt cũng không sao!
Muốn thấy em cười trong nắng ấm
Bên hàng khoai nối những đồng tươi
Em sẽ dịu dàng như luống mạ
Để quên mùa máu chảy muôn nơi
Ai qua suối nước không buồn hát
Những sớm mai hồng của Việt Nam
Ai nhỏ còn kinh ngày chạy giặc
Lòng nghe rúng động cả tâm can
Ta đến mang hồn đi lẩn khuất
Ngùi thương em khóc ở bên đồi
Áo bụi chơ vơ đùa nắng cháy
Còn ta như thể bóng ma trơi
Lúc có là không buồn vạn đại
Về ngang sông nước lũy tre xưa
Ta đến bao giờ mơ trở lại
Thấy em mùa áo mới đơn sơ
Giã biệt Tam Quan sầu Tấn Thạnh
Mai nghe chim hót dọc đường xa
Những chiến binh thường quê hẹn ước
Dáng ai bên núi nhớ không ra.
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét