- Trang chủ
- |
- Giới thiệu
- |
- Quy ước
- |
- Tác giả
- |
- Thư ngỏ
- |
- Lá thư Bông Tràm
Tác phẩm kỷ niệm 10 năm hoạt động của Bông Tràm, có sự góp mặt của 50 tác giả với trên 100 tác phẩm. Sách dày 312 trang, khổ 13 x 19 cm, giá 100.000 đồng.
Chu Thần - Cao Bá Quát, một hiện tượng hiếm quí trong thơ Trung đại. Mà, có lẽ cho đến nay, người đời vẫn chưa đánh giá một cách sâu sắc, đích thực về ông - nhất là mảng thơ Hán tự đặc biệt phong phú, nổi bật của nhà thơ họ Cao.
Nếu gọi ra điệu hồn
riêng trong thơ chữ Hán của Cao bá Quát, có thể khái quát trong mấy chữ này
chăng: Một hồn thơ phóng khoáng, đôn hậu và cũng đầy kiêu hãnh, sâu sắc.
Với Sa hành đoản ca (Bài ca ngắn đi trên
cát) - Thi phẩm đặc sắc, trong chương trình ngữ văn lớp 11 (Sgk Ngữ văn 11, từ
năm học 2007), Cao Bá Quát thực sự đã kết đọng trong lòng độc giả những cảm nhận
khó quên về một Người và cũng là một Lớp - Người: Nhà Nho tài tử - Những kẻ sỹ,
nghệ sỹ mang tình yêu chân thành đến mức tôn thờ Cái - Đẹp: Nhất sinh đê thủ bái mai hoa (Một đời
(Ta) chỉ biết cúi đầu trước hoa mai).
Những Kẻ sỹ - Nghệ
sỹ, chân thành và kiêu hãnh trong cảm hứng trước thiên nhiên mà giãi bày tâm
nguyện: “Bất kiến ba đào tráng/ An tri vạn
lí tâm” (Nếu không thấy được sóng hung/Làm sao biết được tấc lòng muôn
phương).
Đứng ở góc độ người
dạy, muốn thẩm định thi phẩm “Sa hành đoản
ca”, tôi muốn nhấn tới một điều cơ bản và thiết thực trong giảng dạy. Đó
là, giúp học sinh nắm bắt đời và thơ của thi sỹ họ Cao - Tất nhiên, từ đó cần
chỉ ra nét riêng, điệu riêng của thơ Chu Thần. Đấy chính là tâm thế bức xúc của
một thi nhân trước bao điều bất công, ngang trái; Trước bao điều thực giả hỗn độn
giữa sa mạc-cuộc đời! Cảm thức được điều đó, mới nhận ra, mới tường minh chất bản
ngã, bản lĩnh của Cao Bá Quát. Nhà thơ họ Cao đã chọn hình thức biểu hiện của
thơ ngũ ngôn, phù hợp với giọng điệu tâm tình cho những câu thơ khơi mở:
“Trường sa phục trường sa
Nhật
nhập hành vi dĩ
Khách tử lệ giao lạc”
(Bãi cát dài lại bãi cát dài
Đi một bước như lùi một bước.
Mặt trời đã lặn chưa dừng được
Lữ khách trên đường nước mắt rơi)
Những câu thơ đầu
của “Sa hành đoản ca”, mở ra một hiện
trạng, một cảnh ngộ và cũng là sự lên tiếng đầy bức xúc, bức bối của nhân vật
trữ tình (Khách tử). Không gian, thời
gian từ những câu thơ trên như đe dọa, như dồn lữ khách tới cái bi thương của
hoàn cảnh: ngày sắp tàn rồi, mà trước mắt nhìn và tâm thức, vẫn trải mở dằng dặc,
mênh mang ngỡ đến khôn cùng cát và cát (Trường
sa phục trường sa). Thực cảnh bãi cát dài ấy, đem đến cảm giác thật rùng
mình, choáng ngợp và bao phủ - Đi một bước như lùi một bước. Hình ảnh bãi cát
dài vì thế, có thể khơi gợi cảm hứng từ hiện thực khách quan, “được hình thành
trong những lần Cao Bá Quát đi thi Hội, qua các tỉnh miền Trung đầy cát trắng
như Quảng Bình, Quảng Trị” (Sách giáo khoa lớp 11-Tập 1, trang 40). Thực ra,
tôi vẫn chưa thật nhất trí với cách cảm nhận có phần giản đơn và “thật thà” như
vậy!?
Hình ảnh “Trường sa phục trường sa” trong thơ Cao,
thực sự bức bách như nỗi ám ảnh tâm tưởng. Thế nên, sự lên tiếng của nhân vật
trữ tình mới quá đỗi chân thực và xúc động:
Khách tử lệ giao lạc (Lữ khách trên đường nước mắt rơi).
Từ hình ảnh về con
người nhỏ bé, mong manh giữa biển cát mênh mông - Biển cát cuộc đời, (tất nhiên
hình ảnh trường sa vừa mang ý nghĩa tả thực, vừa là một ẩn dụ - tượng trưng),
giúp cho bài thơ của Cao Bá Quát, lại mở tiếp ra một cấp độ nữa của cảm xúc và
suy tư.
Cao Bá Quát đã mượn
và tựa vào tích xưa - “Ông tiên ngủ kỹ”
để gửi gắm sự sáng tạo riêng của mình trong cách nghĩ, cách nhìn vào cuộc đời
và con người:
Quân
bất học tiên gia mỹ thụy ông
Đăng
sơn thiệp thủy oán hà cùng
(Anh không học được tiên ông có phép
ngủ kỹ
Cứ trèo non lội nước mãi, bao giờ cho
hết ta oán)
Về hình thức và giọng
điệu của hai câu thơ trên, mới đọc, cứ ngỡ như những lời “Tiên trách kỷ”, “Tự
trách kỷ”. Đọc và ngẫm kỹ, lại hóa ra lời phản ứng quyết liệt của Kẻ sỹ - Thi
nhân giầu bản lĩnh và cá tính. Làm sao có thể học “Ông tiên ngủ kỹ”, để mà làm
ngơ, để mà nhắm mắt, để mà “mũ ni che tai” trước bao cảnh ngổn ngang, chất chồng
như cát, như núi, như nước giữa cuộc đời - nhân thế. Cao Bá Quát lên tiếng chối
bỏ dạng người an phận (mà thời nào chẳng có!), để rồi nhà thơ chuyển sang một
góc nhìn hiện thực - hiện thực đập vào mắt và chấn động tâm can về đời, về người
:
Cổ
lai danh lợi nhân
Bôn
tẩu lộ đồ trung
Phong tiền tửu điếm hữu mĩ tửu
Tỉnh
giả thường thiểu túy giả đồng
(Xưa nay phường danh lợi
Tất tả trên đường đời
Đầu gió hơi men thơm quán rượu
Người say vô số, tỉnh bao người?)
Sắc sảo trong cách
nhìn và tỉnh táo trong phán xét, Cao Bá Quát đã thực sự vẽ dựng nên một bức
tranh cuộc đời, cũng là bức tranh nhân sinh:
- Phần đông con
người - tầm thường, mang bản chất tham lam, vị kỷ và bon chen. Thế nên, tự cổ
chí kim, bọn người ấy mới khốn khổ, mới vội vã, mới xô bồ trên con đường danh lợi:
Xưa nay phường danh lợi/ Tất tả trên đường đời
- Cũng chính vì
ham, vì mê mải trên con đường danh lợi, mà bọn người thuộc số đông ấy thật dễ bị
dẫn dụ, bị cám dỗ, bị mê hoặc bởi bao nhiêu thứ mỹ tửu dậy đưa hương từ đời, từ tửu điếm - Nhân sinh:
Đầu gió hơi men thơm quán rượu
Người say vô số, tỉnh bao người
Những câu thơ của
Cao tiên sinh, như chiếu một góc nhìn trong tâm thế vừa thầm lặng cô đơn, lại
cũng vừa thầm lặng kiêu hãnh. Nỗi cô đơn và niềm kiêu hãnh của một con người
không muốn và không thể tan hòa trong đám chúng sinh tầm thường mưu cầu danh lợi.
Mượn những hình ảnh hiện hữu đơn phương từ những danh lợi nhân, nhà thơ - Nhà Nho tài tử, đã tạo nên thế tương phản,
đối lập thầm lặng mà quyết liệt giữa cái tầm thường với cái thanh cao; giữa cái
ồn ã sục sôi từ thiên hạ với cái lặng lẽ, cao ngạo từ Con người-bản thể của kẻ
sỹ chân chính.
Cao Bá Quát cũng đồng
thời nói lên một sự thực mang tính qui luật: Người tỉnh trên cõi thế, giữa thời
tao loạn, luôn là người gánh chịu nỗi cô đơn! Cô đơn nên mới vất vưởng, khốn khổ
trên Sa - Mạc - Đời mà cũng là hoang mạc của thân phận.
Tứ thơ của Sa hành đoản ca- vận động đến những câu
thơ cuối bài, thực sự chất chứa đầy day dứt, trăn trở như sắp bùng phát cơn bão
tố của lòng người:
Trường
sa trường sa nại cừ hà
(Bãi
cát dài, bãi cát dài biết tính sao đây?)
Một câu thơ, một
câu hỏi - Tự nó ngân vang lời bi thiết trước hiện trạng như bế tắc, bần cùng
khi con người đi đường mà chưa tìm ra đường. Chỉ thấy trước mắt, thật nhiều ám ảnh,
ghê rợn: Thản lộ mang mang úy lộ đa (Bước
đường bằng phẳng thì mờ mịt!)
Sa hành đoản ca của Cao Bá Quát,
chợt cất lên tiếng thơ, tiếng hát, khởi phát tự lòng người, thật lạ !
Thính
ngã nhất xướng cùng đồ ca
(Hãy nghe ta hát khúc đường cùng)
Cái hay và ấn tượng
trong những con chữ của Cao tiên sinh là ở chỗ: Nhà thơ dùng chữ Ca (hát) chứ không dung chữ Thuyết (nói). Thế nên, không thể Thính ngã nhất xướng cùng đồ thuyết (hãy nghe ta nói lời đường cùng).
Nỗi bi phẫn, u uất
trong lòng, làm sao chỉ giải tỏa bằng lời nói thường tình? Phải cuồng ca, sảng
ca - những lời ca dậy lửa, dậy sóng từ con tim đang ngập tràn nỗi đau và niềm
kiêu hãnh khôn cùng! Khúc ca bi tráng của Cao Bá Quát đã đến độ cao trào của cảm
hứng! Trước cảnh tượng điệp trùng vây bủa của núi, của sóng, của cát… phải biết
tìm giải thoát cho số phận:
Bắc sơn chi bắc sơn vạn điệp
Nam sơn chi nam ba vạn cấp
(Phía bắc
núi bắc núi muôn trùng
Phía nam núi Nam sóng muôn đợt)
Nhà thơ họ Cao chợt
tìm đến mà hạ bút kết lại Sa hành đoản ca
trong một câu thơ thật lạ. Và, cũng chính vì lạ mà chợt nâng cao và rộng mở tầm
cảm xúc và suy tư cho toàn bộ thi phẩm. Tứ thơ cũng đột khởi dâng trào từ hình
thức câu nghi vấn:
Quân hồ
vi hồ sa thượng lập?
(Anh còn đứng làm
chi trên bãi cát?)
Bài thơ khép lại bằng
câu hỏi với bao nhiêu băn khoăn, u uất. Nhưng, cũng chính từ câu chữ ấy, lại
đánh thức sự tung phá và giải thoát cho con người và cảnh ngộ. Với Cao Bá Quát,
con đường giải thoát cho số phận mình là tìm đến và tham gia cuộc khởi nghĩa Mĩ
Lương (1854) chống lại triều Nguyễn. Từ buồn đau, bế tắc và cô đơn, trước bãi
cát mịt mùng nghiệt ngã của cuộc đời - Cao tiên sinh tìm đến và kiêu hãnh giữa
thiên nhiên khoáng đạt, vĩnh hằng như tâm sự của ông trong một bài thơ chữ Hán
khác -Quá Dục Thúy sơn (Qua núi Dục
Thúy):
Thiên
địa hữu tư sơn
Vạn cổ hữu tư tự
Phong cảnh dĩ kì tuyệt
Nhi ngã diệc lai thử
(Trời đất có núi ấy
Muôn thủa có chùa này
Phong cảnh đã kỳ tuyệt
Lại thêm Ta đến đây)
(Hà Nội,
Tháng tám - 2022)
Chu Thần - Cao Bá
Quát, một hiện tượng hiếm quí trong thơ Trung đại. Mà, có lẽ cho đến nay, người
đời vẫn chưa đánh giá một cách sâu sắc, đích thực về ông - nhất là mảng thơ Hán
tự đặc biệt phong phú, nổi bật của nhà thơ họ Cao.
Nếu gọi ra điệu hồn
riêng trong thơ chữ Hán của Cao bá Quát, có thể khái quát trong mấy chữ này
chăng: Một hồn thơ phóng khoáng, đôn hậu và cũng đầy kiêu hãnh, sâu sắc.
Với Sa hành đoản ca (Bài ca ngắn đi trên
cát) - Thi phẩm đặc sắc, trong chương trình ngữ văn lớp 11 (Sgk Ngữ văn 11, từ
năm học 2007), Cao Bá Quát thực sự đã kết đọng trong lòng độc giả những cảm nhận
khó quên về một Người và cũng là một Lớp - Người: Nhà Ngo tài tử - Những kẻ sỹ,
nghệ sỹ mang tình yêu chân thành đến mức tôn thờ Cái - Đẹp: Nhất sinh đê thủ bái mai hoa (Một đời
(Ta) chỉ biết cúi đầu trước hoa mai).
Những Kẻ sỹ - Nghệ
sỹ, chân thành và kiêu hãnh trong cảm hứng trước thiên nhiên mà giãi bày tâm
nguyện: “Bất kiến ba đào tráng/ An tri vạn
lí tâm” (Nếu không thấy được sóng hung/Làm sao biết được tấc lòng muôn
phương).
Đứng ở góc độ người
dạy, muốn thẩm định thi phẩm “Sa hành đoản
ca”, tôi muốn nhấn tới một điều cơ bản và thiết thực trong giảng dạy. Đó
là, giúp học sinh nắm bắt đời và thơ của thi sỹ họ Cao - Tất nhiên, từ đó cần
chỉ ra nét riêng, điệu riêng của thơ Chu Thần. Đấy chính là tâm thế bức xúc của
một thi nhân trước bao điều bất công, ngang trái; Trước bao điều thực giả hỗn độn
giữa sa mạc-cuộc đời! Cảm thức được điều đó, mới nhận ra, mới tường minh chất bản
ngã, bản lĩnh của Cao Bá Quát. Nhà thơ họ Cao đã chọn hình thức biểu hiện của
thơ ngũ ngôn, phù hợp với giọng điệu tâm tình cho những câu thơ khơi mở:
“Trường sa phục trường sa
Nhật
nhập hành vi dĩ
Khách tử lệ giao lạc”
(Bãi cát dài lại bãi cát dài
Đi một bước như lùi một bước.
Mặt trời đã lặn chưa dừng được
Lữ khách trên đường nước mắt rơi)
Những câu thơ đầu
của “Sa hành đoản ca”, mở ra một hiện
trạng, một cảnh ngộ và cũng là sự lên tiếng đầy bức xúc, bức bối của nhân vật
trữ tình (Khách tử). Không gian, thời
gian từ những câu thơ trên như đe dọa, như dồn lữ khách tới cái bi thương của
hoàn cảnh: ngày sắp tàn rồi, mà trước mắt nhìn và tâm thức, vẫn trải mở dằng dặc,
mênh mang ngỡ đến khôn cùng cát và cát (Trường
sa phục trường sa). Thực cảnh bãi cát dài ấy, đem đến cảm giác thật rùng
mình, choáng ngợp và bao phủ - Đi một bước như lùi một bước. Hình ảnh bãi cát
dài vì thế, có thể khơi gợi cảm hứng từ hiện thực khách quan, “được hình thành
trong những lần Cao Bá Quát đi thi Hội, qua các tỉnh miền Trung đầy cát trắng
như Quảng Bình, Quảng Trị” (Sách giáo khoa lớp 11-Tập 1, trang 40). Thực ra,
tôi vẫn chưa thật nhất trí với cách cảm nhận có phần giản đơn và “thật thà” như
vậy!?
Hình ảnh “Trường sa phục trường sa” trong thơ Cao,
thực sự bức bách như nỗi ám ảnh tâm tưởng. Thế nên, sự lên tiếng của nhân vật
trữ tình mới quá đỗi chân thực và xúc động:
Khách tử lệ giao lạc (Lữ khách trên đường nước mắt rơi).
Từ hình ảnh về con
người nhỏ bé, mong manh giữa biển cát mênh mông - Biển cát cuộc đời, (tất nhiên
hình ảnh trường sa vừa mang ý nghĩa tả thực, vừa là một ẩn dụ - tượng trưng),
giúp cho bài thơ của Cao Bá Quát, lại mở tiếp ra một cấp độ nữa của cảm xúc và
suy tư.
Cao Bá Quát đã mượn
và tựa vào tích xưa - “Ông tiên ngủ kỹ”
để gửi gắm sự sáng tạo riêng của mình trong cách nghĩ, cách nhìn vào cuộc đời
và con người:
Quân
bất học tiên gia mỹ thụy ông
Đăng
sơn thiệp thủy oán hà cùng
(Anh không học được tiên ông có phép
ngủ kỹ
Cứ trèo non lội nước mãi, bao giờ cho
hết ta oán)
Về hình thức và giọng
điệu của hai câu thơ trên, mới đọc, cứ ngỡ như những lời “Tiên trách kỷ”, “Tự
trách kỷ”. Đọc và ngẫm kỹ, lại hóa ra lời phản ứng quyết liệt của Kẻ sỹ - Thi
nhân giầu bản lĩnh và cá tính. Làm sao có thể học “Ông tiên ngủ kỹ”, để mà làm
ngơ, để mà nhắm mắt, để mà “mũ ni che tai” trước bao cảnh ngổn ngang, chất chồng
như cát, như núi, như nước giữa cuộc đời - nhân thế. Cao Bá Quát lên tiếng chối
bỏ dạng người an phận (mà thời nào chẳng có!), để rồi nhà thơ chuyển sang một
góc nhìn hiện thực - hiện thực đập vào mắt và chấn động tâm can về đời, về người
:
Cổ
lai danh lợi nhân
Bôn
tẩu lộ đồ trung
Phong tiền tửu điếm hữu mĩ tửu
Tỉnh
giả thường thiểu túy giả đồng
(Xưa nay phường danh lợi
Tất tả trên đường đời
Đầu gió hơi men thơm quán rượu
Người say vô số, tỉnh bao người?)
Sắc sảo trong cách
nhìn và tỉnh táo trong phán xét, Cao Bá Quát đã thực sự vẽ dựng nên một bức
tranh cuộc đời, cũng là bức tranh nhân sinh:
- Phần đông con
người - tầm thường, mang bản chất tham lam, vị kỷ và bon chen. Thế nên, tự cổ
chí kim, bọn người ấy mới khốn khổ, mới vội vã, mới xô bồ trên con đường danh lợi:
Xưa nay phường danh lợi/ Tất tả trên đường đời
- Cũng chính vì
ham, vì mê mải trên con đường danh lợi, mà bọn người thuộc số đông ấy thật dễ bị
dẫn dụ, bị cám dỗ, bị mê hoặc bởi bao nhiêu thứ mỹ tửu dậy đưa hương từ đời, từ tửu điếm - Nhân sinh:
Đầu gió hơi men thơm quán rượu
Người say vô số, tỉnh bao người
Những câu thơ của
Cao tiên sinh, như chiếu một góc nhìn trong tâm thế vừa thầm lặng cô đơn, lại
cũng vừa thầm lặng kiêu hãnh. Nỗi cô đơn và niềm kiêu hãnh của một con người
không muốn và không thể tan hòa trong đám chúng sinh tầm thường mưu cầu danh lợi.
Mượn những hình ảnh hiện hữu đơn phương từ những danh lợi nhân, nhà thơ - Nhà Nho tài tử, đã tạo nên thế tương phản,
đối lập thầm lặng mà quyết liệt giữa cái tầm thường với cái thanh cao; giữa cái
ồn ã sục sôi từ thiên hạ với cái lặng lẽ, cao ngạo từ Con người-bản thể của kẻ
sỹ chân chính.
Cao Bá Quát cũng đồng
thời nói lên một sự thực mang tính qui luật: Người tỉnh trên cõi thế, giữa thời
tao loạn, luôn là người gánh chịu nỗi cô đơn! Cô đơn nên mới vất vưởng, khốn khổ
trên Sa - Mạc - Đời mà cũng là hoang mạc của thân phận.
Tứ thơ của Sa hành đoản ca- vận động đến những câu
thơ cuối bài, thực sự chất chứa đầy day dứt, trăn trở như sắp bùng phát cơn bão
tố của lòng người:
Trường
sa trường sa nại cừ hà
(Bãi
cát dài, bãi cát dài biết tính sao đây?)
Một câu thơ, một
câu hỏi - Tự nó ngân vang lời bi thiết trước hiện trạng như bế tắc, bần cùng
khi con người đi đường mà chưa tìm ra đường. Chỉ thấy trước mắt, thật nhiều ám ảnh,
ghê rợn: Thản lộ mang mang úy lộ đa (Bước
đường bằng phẳng thì mờ mịt!)
Sa hành đoản ca của Cao Bá Quát,
chợt cất lên tiếng thơ, tiếng hát, khởi phát tự lòng người, thật lạ !
Thính
ngã nhất xướng cùng đồ ca
(Hãy nghe ta hát khúc đường cùng)
Cái hay và ấn tượng
trong những con chữ của Cao tiên sinh là ở chỗ: Nhà thơ dùng chữ Ca (hát) chứ không dung chữ Thuyết (nói). Thế nên, không thể Thính ngã nhất xướng cùng đồ thuyết (hãy nghe ta nói lời đường cùng).
Nỗi bi phẫn, u uất
trong lòng, làm sao chỉ giải tỏa bằng lời nói thường tình? Phải cuồng ca, sảng
ca - những lời ca dậy lửa, dậy sóng từ con tim đang ngập tràn nỗi đau và niềm
kiêu hãnh khôn cùng! Khúc ca bi tráng của Cao Bá Quát đã đến độ cao trào của cảm
hứng! Trước cảnh tượng điệp trùng vây bủa của núi, của sóng, của cát… phải biết
tìm giải thoát cho số phận:
Bắc sơn chi bắc sơn vạn điệp
Nam sơn chi nam ba vạn cấp
(Phía bắc
núi bắc núi muôn trùng
Phía nam núi Nam sóng muôn đợt)
Nhà thơ họ Cao chợt
tìm đến mà hạ bút kết lại Sa hành đoản ca
trong một câu thơ thật lạ. Và, cũng chính vì lạ mà chợt nâng cao và rộng mở tầm
cảm xúc và suy tư cho toàn bộ thi phẩm. Tứ thơ cũng đột khởi dâng trào từ hình
thức câu nghi vấn:
Quân hồ
vi hồ sa thượng lập?
(Anh còn đứng làm
chi trên bãi cát?)
Bài thơ khép lại bằng
câu hỏi với bao nhiêu băn khoăn, u uất. Nhưng, cũng chính từ câu chữ ấy, lại
đánh thức sự tung phá và giải thoát cho con người và cảnh ngộ. Với Cao Bá Quát,
con đường giải thoát cho số phận mình là tìm đến và tham gia cuộc khởi nghĩa Mĩ
Lương (1854) chống lại triều Nguyễn. Từ buồn đau, bế tắc và cô đơn, trước bãi
cát mịt mùng nghiệt ngã của cuộc đời - Cao tiên sinh tìm đến và kiêu hãnh giữa
thiên nhiên khoáng đạt, vĩnh hằng như tâm sự của ông trong một bài thơ chữ Hán
khác - Quá Dục Thúy sơn (Qua núi Dục
Thúy):
Thiên
địa hữu tư sơn
Vạn cổ hữu tư tự
Phong cảnh dĩ kỳ tuyệt
Nhi ngã diệc lai thử
(Trời đất có núi ấy
Muôn thủa có chùa này
Phong cảnh đã kỳ tuyệt
Lại thêm Ta đến đây)
Hà Nội, Tháng tám - 2022
Trần Trung
© Tác giả giữ bản quyền. Vui lòng ghi rõ nguồn Bông Tràm khi sử dụng lại nội dung này.
|
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét