- Trang chủ
- |
- Giới thiệu
- |
- Quy ước
- |
- Tác giả
- |
- Thư ngỏ
- |
- Lá thư Bông Tràm
Tác phẩm kỷ niệm 10 năm hoạt động của Bông Tràm, có sự góp mặt của 50 tác giả với trên 100 tác phẩm. Sách dày 312 trang, khổ 13 x 19 cm, giá 100.000 đồng.
Cổng làng, xưa
kia có chức năng đảm bảo an ninh cho cộng đồng thì bây giờ chủ yếu nghiêng về
khía cạnh bảo tồn, lưu giữ các giá trị văn hóa, lịch sử của một thời đã qua. Giờ
đây nó được ví von là một mảnh hồn quê gây thương nhớ. Cái mảnh hồn quê gây
thương nhớ ấy một thời từng là “biên giới” của bên trong và bên ngoài như lời
bài thơ của Phạm Lưu Vũ, từng được nhạc sỹ Trọng Đài phổ nhạc trong bộ phim
“Gia phả của đất”: “bên trong là thanh bình/ bên ngoài là thiên hạ”, “bên trong
là ký ức/ bên ngoài là tha phương”, “bên ngoài là ra đi/ bên trong là ở lại”… Và,
bao đời nay, ở nông thôn Việt Nam, nhất là đồng bằng Bắc Bộ, hình ảnh cổng làng
cùng với cây đa, giếng nước, mái đình đã làm thành bộ tứ để hình thành nên hồn
cốt của mỗi làng quê. Có thể nói không ngoa, cái cổng làng của mỗi làng quê ấy;
dù sang trọng, tôn nghiêm hay giản dị, mộc mạc thì từ trong thực tế cuộc sống vật
chất hay tinh thần cũng đã gắn bó, tri kỷ với mỗi thành viên của cộng đồng làng
kể từ tuổi ấu thơ cho đến khi phải trở về với cát bụi. Còn với những ai phải
tha hương, cái “cổng làng neo ở giữa/ trong, ngoài thế gian” ấy không chỉ hiện
lên như một biểu tượng đẹp đẽ đầy tự hào của người xa xứ mỗi khi nhớ về cái nơi
chôn nhau cắt rốn mà còn là một bóng hình của cố hương gắn với biết bao nỗi niềm,
kỷ niệm chẳng thể nào phôi phai. Cái mảnh hồn quê thương nhớ ấy cứ mãi náu
nương, neo đậu trong tâm hồn những kẻ ly hương tựa như “nỗi nhớ chìm trong thớ
đá/ ghim vào muôn kiếp cỏ cây”, đằm sâu trong ký ức của biết bao người.
Với người Việt,
văn hóa làng là đặc điểm nổi bật. Mỗi làng Việt là một đơn vị tụ cư của những
người dân chủ yếu trong cùng địa vực nhất định. Bởi thế cái làng ấy giống như một
ngôi nhà chung của một cộng đồng dân cư cùng chung sống với nhau trên cùng một
không gian địa lý. Và lẽ dĩ nhiên kiến trúc của ngôi nhà ấy phải có cổng. Chẳng
thế, từ xa xưa, dân gian thường nhắc bảo nhau rằng: “nhà có nóc, làng có cổng”.
Bao đời nay, thường thường làng nào chẳng có cổng. Làng có điều kiện thì làm
nhiều cổng, thường là hai cái, gồm cổng tiền (trước làng) và cổng hậu (sau
làng). Cổng trước làng thường hay trổ về hướng Nam, Đông Nam, Đông. Đó là những
hướng đón những ngọn gió mát lành, hướng của mặt trời lên. Và lẽ dĩ nhiên, trong
cái niềm tin tâm linh ấy của người xưa những hướng đó sẽ đem đến phúc lộc, bình
an cho tất cả dân làng. Còn cổng hậu thường được trổ về phía Tây, hướng mặt trời
lặn, tượng trưng cho sự khép lại của mọi vật. Bởi thế cổng hậu thường hay được
sử dụng làm nơi đưa tiễn những người trong làng đã khuất ra ngoài nghĩa địa.
Người xưa quan niệm những điều không may không được đưa ra phía trước làng. Cổng
trước làng dùng để cho người trong làng ra ngoài làng đi làm ăn; dùng làm nơi
tiễn trai làng ra trận để bảo vệ xứ sở quê hương hoặc dùng để đón những người
con ưu tú của làng trở về, kiểu như “vinh quy bái tổ”… Thế đấy, cổng làng hình
thành, phát triển cùng với quá trình dựng làng, một thời gắn liền với những niềm
tin và khát vọng của cả cộng đồng trong một vai trò công năng chủ yếu là phục vụ
việc phòng chống: thủy, hỏa, đạo, tặc. Cũng chính vì thế cổng làng của người Việt
rất phong phú về kiểu cách, hình dáng, chất liệu. Tùy từng điều kiện về kinh tế,
tự nhiên, thẩm mỹ của mỗi làng mà có những cái cổng làng khác nhau. Về hình
dáng kiểu cách, cổng làng có thể làm một tầng với cái gian nhà chỉ có duy nhất
một lối vào, ra. Nhưng cũng có cái cổng làng làm rất cầu kỳ theo kiểu hai tầng,
tám mái như thể “thượng gia hạ môn” hoặc kiểu “vọng lâu” với nhiều cửa ra vào
(có từ ba cửa trở lên) cùng các cột trụ trang trí tứ linh rất đẹp … Về chất liệu,
cổng làng có cái làm bằng đá, có cái làm bằng gạch nung, có cái làm bằng gạch
đá ong … Tất cả, theo năm tháng cùng với những nắng mưa, cùng với những thăng
trầm của lịch sử, cổng làng có cái còn khá nguyên vẹn, thâm trầm cùng những rêu
phong. Nhưng cũng có làng không còn giữ được cái cổng cổ xưa của cha ông tạo dựng.
Và cũng có cổng làng song tồn cùng sự xâm thực của thế giới thảo mộc tạo thành
những “kỳ quan” khiến người qua không khỏi mê mẩn. Nhưng dù có khác nhau thế
nào đi nữa thì mỗi cái cổng làng còn lại đến ngày nay đều rất gần gũi, thân yêu,
dễ mến và gây thương nhớ với tất cả mọi người.
Tuổi thơ tôi và
của tất cả những ai sinh ra, lớn lên từ làng quê, hẳn đều mang trong mình biết
bao kỷ niệm với những sân đình, giếng nước, gốc đa, mái chùa. Và tất nhiên có cả
hình ảnh cái cổng làng của cả đôi quê nội, ngoại. Sau này lớn lên được đi nhiều
nơi, đến nhiều làng, tôi càng thích thú và mê mẩn với những cổng làng của những
vùng quê khác, nhất là vùng đất cổ xứ Đoài. Với tôi mỗi cái cổng làng như một
câu chuyện kể sống động làm hiện lên trong trí tưởng tượng những cảm xúc đầy lý
thú. Có cổng làng giản dị, mộc mạc tựa như cổng làng Mông Phụ (Sơn Tây). Nó không
bề thế, cao to, uy nghi, tôn nghiêm giống như kiến trúc đình, miếu với rồng chầu,
nghê trực mà chỉ đơn giản với gian nhà xây bằng tường gạch đá ong, tọa dưới tán
đa cổ thụ rợp bóng, xanh mát quanh năm như để làm chỗ ngồi hóng mát cho người
già, con trẻ trong mỗi buổi chiều hôm. Tuy vậy cổng ấy cũng có tuổi đời quãng
chừng ngót năm trăm năm; ngày ngày âm thầm thực hiện cái việc: “Cổng làng mở rộng.
Ồn ào/ Nông phu lững thững đi vào nắng mai” hay “Cổng làng vài chị gái non/ Dừng
chân uể oải chờ cơn gió nồm” (Bàng Bá Lân). Cổng làng và cây đa ấy đã từng như
che chở, âu yếm cho biết bao sinh linh của làng nhưng đồng thời cũng là một chứng
nhân của biết bao kiếp người với những buồn vui, vất vả. Có cái cổng làng bề thế,
uy nghiêm, đẹp đẽ, cầu kỳ như thể cổng làng Ước Lễ (Thanh Oai). Cổng làng Ước Lễ
có cấu trúc và trang trí theo kiểu cách của kinh thành Huế với cầu cong, tường
cao, hào sâu và mái cổng làm rất cầu kỳ với hai tầng, mỗi tầng có bốn mái tựa
như kiểu mái đình, mái chùa; nóc mái trên cùng có đắp lưỡng long chầu nguyệt, tám
góc mái có các đầu đao cong vút tỏa ra bốn bề không gian rất duyên dáng cùng những
hình ảnh của rồng, cá chép, dơi bay được đắp nổi trên bề mặt cổng như thể ký
thác, gửi gắm bao khát vọng, ước mơ ngàn đời của dân làng về học hành, bình an,
phồn thịnh. Và cũng có những cái cổng làng rất đẹp mang dấu ấn của sự giao lưu
văn hóa của các tộc người Chăm, Việt cách đây khoảng bảy trăm năm nhưng đã “hết
duyên”. Nay cứ âm thầm, lặng lẽ thi gan cùng tuế nguyệt, mặc cho cỏ cây xâm thực
trên thân xác phôi pha như thể cổng làng Phương Viên (Hoài Đức) nằm bên bờ đê tả
Đáy. Toàn cổng là một khối đặc, xây bằng gạch, theo kiểu hình tháp giật cấp
nhìn rất bề thế, vững chắc, khỏe khoắn. Cổng có ba cửa tò vò, trên có nhiều mái
hình ống, uốn cong nhìn rất uyển chuyển. Cổng làng ấy vẫn còn đó nhưng “qua đường
không ai hay” (Vũ Đình Liên) lâu dần trở thành phế tích chơ vơ bên bờ đê. Duyên
phận hẩm hưu của cái cổng làng ấy cũng giống như số phận ăm ắp nỗi buồn của những
người thợ Chăm phải ly hương theo nhà Trần khi bị bắt làm tù binh đưa về đất Bắc.
Phải chăng cái bóng dáng lẻ loi, lặng lẽ, âm thầm có phần như nhẫn nại của tòa
cổng ấy cũng đang phong kín biết bao tâm sự của người thợ xưa đã từng ký thác, gửi
gắm những nỗi niềm nhung nhớ cố hương vào từng tầng tháp cổ nơi đất khách quê
người trong nghìn trùng xa cách, giữa mênh mông biển sầu. Có cổng làng cùng cây
cổ thụ nâng đỡ, nương tựa bên nhau để cùng tồn tại và vô tình để lại cho đờ những
kiệt tác tựa “kỳ quan” như thể cổng làng Yên Cốc (Chương Mỹ). Ngay cả những người
cao tuổi trong làng ở đây cũng chẳng biết cây đa và cái cổng có từ bao giờ. Họ
chỉ biết rằng khi sinh ra thì đã thấy cây đa ôm lấy cổng làng rồi. Rễ đa buông
xuống ôm chặt lấy cổng làng, giữ cho cổng làng không bị gục đổ bởi mưa nắng của
thời gian. Trái lại cổng làng như đang gồng mình nâng đỡ thân đa cho khỏi bị
mưa giật bão rung, trường tồn qua năm tháng. Người ta bảo thần linh ở cây đa đã
che chở cho dân làng yên thân vượt qua thời chiến tranh với bao bom rơi đạn lạc.
Giờ đây cái cổng ấy không chỉ là linh hồn của dân làng mà còn là một “kỳ quan”
trong mắt khách thập phương.
Mỗi cái cổng
làng của người xưa còn lại đến ngày nay không chỉ là niềm tự hào hãnh diện, lưu
dấu tài hoa của cha ông một thủa mà còn là hồn thiêng của mỗi làng quê. Nó đã gắn
bó với biết bao kiếp người qua các thế hệ. Cái cổng làng ấy đã có một thời làm
nơi đầu làng chờ cha, cuối làng đón mẹ của bao tuổi thơ. Và giờ đây, bên lũy
tre xanh hay dưới gốc đa già, cái cổng làng trầm mặc, rêu phong, thân thương ấy
hàng ngày vẫn đang dõi theo vòng quay: sinh - trưởng
- tụ - về của biết bao con người như những ngày xưa. Trong mê mải của những
nghĩ suy về cổng làng, ngắm nhìn hình hài của những chiếc cổng trường tồn
qua năm tháng với bao khắc nghiệt của nắng mưa gió bão, của dâu bể trần ai sao ta
thấy nó hiện lên sao mà vẫn gần gũi và thân thương quá đỗi. Cổng làng cứ thế nhẫn
nại, bám trụ theo thời gian. Đôi khi cứ tưởng chừng nó rất vô tri, vô giác nhưng
dường như nó đang âm thầm mang trên mình cái sứ mệnh đại sứ của thời gian; kết
nối quá khứ với hiện tại và tương lai bằng những âm vang của ngôn ngữ kiến
trúc, ngôn ngữ tạo hình và bằng cả những nét rêu phong, nham nhở, lở lói trên
thân thể có vẻ như đã già nua ... Có lẽ thế nên có cũng không ít cổng làng vẫn bình yên, vững vàng, trước bao biến cố thăng trầm
cùng những bão táp phong ba trong suốt dặm dài của lịch sử dựng nước và giữ nước.
Cái cổng làng một
thủa yêu thương của biết bao người ấy là cả một bầu trời kỷ niệm với không ít người
xa xứ. Đã có biết bao người mưu sinh khắp bốn bể chân trời nhưng mỗi khi có dịp
về làng, bước thấp bước cao, khấp kha khấp khểnh chỉ muốn nhanh chóng được
trông thấy cái cổng làng. Và rồi đến khi đối diện với nó trong lòng không khỏi
dưng dưng, trào dâng những xúc cảm, hoài niệm của một thời niên thiếu với biết
bao trò ngịch ngợm ở quanh cái cổng làng ngày xưa. Còn nữa, với những người
chưa có điều kiện trở lại với quê hương thì cổng làng trong họ là cả bầu trời
thương nhớ; cả một miền ký ức trong những câu chuyện kể với những người thân mỗi
khi lòng sắt se nhớ về quê cũ. Và có lẽ mỗi lần như vậy cố hương trong họ lại
hiện về trong những nỗi nhớ tha hương cứ đau đáu, day dứt, khắc khoải, da diết
đến lạ … Những câu chuyện như thế với người thân đã nghe rồi, nghe mãi như thể
“biết rồi, khổ lắm, nói mãi” nhưng với họ thì vẫn tinh khôi như mới nói lần đầu.
Họ cứ say sưa kể, ngất ngây như không hề thấy cũ, không hề tẻ nhạt, buồn chán.
Sức sống và
tình yêu với cổng làng tưởng như vô hình thế ấy nhưng thực ra rất mãnh liệt và
bền chặt. Nó tựa như sợi dây quấn chặt người quê với cái nơi sinh ra và lớn lên
trong suốt hành trình đi trên mặt đất. Chẳng biết có phải vì vậy mà cổng làng từ
lâu đã trở thành một hình tượng thẩm mỹ của rất nhiều loại hình nghệ thuật: văn
học, âm nhạc, điện ảnh và đặc biệt là hội họa. Cổng làng trong những tác phẩm
nghệ thuật ấy, nếu để ý kỹ, ta cũng sẽ thấy mỗi khi xuất hiện hiếm khi phải đứng
một mình. Cổng làng nếu không song hành với bóng đa, cây cầu, người dắt trâu về
thì cũng là lũy tre, cây gạo, dòng mương … Tất cả những hình ảnh thân quen của
chốn dân dã ấy dễ đập vào mắt ta như chạm vào cái huyệt đạo thần kinh nhạy cảm
nhất, tái hiện trong lòng người xem một cách khá sinh động cái không gian văn
hóa của làng cùng nhịp sống chậm chạp hay hối hả của những miền quê trong một
lát cắt diệu kỳ, làm vơi đi chút nỗi nhớ nhà đối với kẻ tha phương; làm sống lại
những kỷ niệm của một thời đã xa với không phải chỉ riêng của một người. Chẳng
biết có phải vậy mà có không ít người xa quê, không có điều kiện trở lại quê
nhà đã phải gọi điện cho người thân nhờ chụp ảnh và gửi cho mình cái cổng làng
của một thời thương nhớ. Hoặc có kẻ may mắn được trở lại quê hương thì không khỏi
lưu lại dáng hình của mình bên chiếc cổng làng và cất giữ tấm ảnh như một báu vật
của đời.
Phan Anh
© Tác giả giữ bản quyền. Vui lòng ghi rõ nguồn Bông Tràm khi sử dụng lại nội dung này.
|
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét