- Trang chủ
- |
- Giới thiệu
- |
- Quy ước
- |
- Tác giả
- |
- Thư ngỏ
- |
- Lá thư Bông Tràm
Tác phẩm kỷ niệm 10 năm hoạt động của Bông Tràm, có sự góp mặt của 50 tác giả với trên 100 tác phẩm. Sách dày 312 trang, khổ 13 x 19 cm, giá 100.000 đồng.
Người ta bảo, từ trên cao nhìn xuống bán đảo Đồ Sơn
trông tựa như chín con rồng đang vươn mình về phía biển Đông với một cảnh sắc tự
nhiên “sơn thuỷ hữu tình” vô cùng lãng mạn và đầy sức quyến rũ. Chẳng thế, bao
đời nay người của thành phố hoa phượng đỏ lúc nào cũng tự hào mà thơ rằng với
thiên hạ: “Đồ Sơn cảnh đẹp tuyệt vời/Dưới chân sóng vỗ, trên đồi thông reo”. Có
lẽ tiếng hay đồn vậy nên từ thời xa xưa bao đời vua, chúa, quan lại trong và
ngoài nước (quan lại đến xâm lược) cùng giới thượng lưu vẫn cứ thường xuyên đưa
nhau tìm đến nơi đây để thăm thú, nghỉ ngơi và hưởng thụ vẻ đẹp diệu kỳ như lộc
trời ban cho đất và người Hải Phòng vậy.Bến Nghiên - ảnh tác giả cung cấp
Vùng biển của những thơ và mộng
Theo giáo sư Trần Quốc Vượng, đồng bằng châu thổ Bắc Bộ
là một tam giác. Đỉnh là là ngã ba Bạch Hạc, hai góc đáy là Ngọc Sơn (Quảng
Ninh) và Nga Sơn (Thanh Hoá). Vậy nên bán đảo Đồ Sơn là một điểm nằm trên cạnh
đáy của đồng bằng rộng lớn nhất nước, tiếp giáp với biển Đông. Bởi thế vùng đất
này vừa mang vẻ đẹp phì nhiêu của đồng bằng màu mỡ vừa có sự quyến rũ mặn mà của
một vùng cửa biển. Hơn thế bán đảo Đồ Sơn được tạo thành chủ yếu bằng các đá trầm
tích lục nguyên và khá độc đáo về địa hình, địa mạo. Nhìn một cách tổng thể đó
là một vùng đồi, núi thấp có khoảng chục hòn đảo lớn nhỏ được liên kết với nhau
bởi các doi cát kéo dài tạo thành một chuỗi, giống như một dải núi đang nối
đuôi nhau, vươn mình về phía biển xa, duy chỉ có riêng đảo hòn Dấu ở phía Đông
Nam là bị cô lập. Trên bán đảo ấy có những bãi biển đêm ngày sóng xô bờ cát
tung bọt trắng xoá; có những đồi thông xanh biếc như một “Đà lạt thu nhỏ” vi vu
trong gió tựa cung đàn đang ngân lên đâu đó và thoảng vào trong gió; có những
vách đá, thềm biển bị mài mòn mang trên mình các vết tích kỳ thú của các hiện
tượng thiên nhiên tạo thành những hình chạm khắc đẹp như những bức tranh trên mặt
biển.
Biển Đồ Sơn không có những núi đá lừng lững hùng vĩ
như vùng biển Cát Bà hay thạch trận hiểm yếu như cửa biển Bạch Đằng: “Ngạc đoạn kình khoa sơn
khúc khúc/ Qua trầm
kích chiết ngạn tằng tằng” (Như cá sấu bị chặt, cá kình bị mổ, núi chia từng
khúc một/ Như mũi qua chìm, cây kích gãy, bên bờ lớp lớp chồng) mà chỉ có núi,
đồi thâm thấp, nhấp nhô chạy từ đất liền ra và bao viền quanh biển. Sóng biển Đồ
Sơn cũng không dập dồn, ầm ầm, mạnh mẽ như sóng biển Sầm Sơn mà nhẹ nhàng, dịu
dàng, khẽ khàng; đủ để vỗ lên các bờ đá những con sóng bạc đầu làm thành những
nét chạm khắc lưu dấu ngàn năm. Nước biển Đồ Sơn không “xanh cái màu xanh của ngọc bích”, cũng chẳng “lam biếc đậm đà” như nước
biển ở Cô Tô mà đục hồng phơn phớt cùng cái màu nâu bùn của đất và cát là những
phù sa của châu thổ sông Hồng được đổ ra cửa biển từ hai cửa sông Lạch Tray và
Văn Úc. Người ta bảo nhờ có phù sa của đồng bằng châu thổ ấy mà nước biển ở Đồ
Sơn có thêm nhiều khoáng và làm cho độ mặn trở nên vừa phải giúp cho người tắm được
bổ sung thêm nhiều khoáng chất, không bị hư da do nước biển mặn và ánh nắng mặt
trời phản chiếu. Cái vẻ đẹp có phần khác biệt căn cốt ấy của vùng biển Đồ
Sơn là vẻ đẹp của thiên tạo, thơ mộng và trữ tình, chẳng thể nào lẫn vào đâu, với
bất kỳ vùng biển nào khác. Ở bãi biển Đồ Sơn những khu phố tựa như đang ẩn mình
trong một thung lũng xanh mát do được bao phủ bởi những đồi thông xanh mướt cùng
với muôn cây trên từng dải núi, đồi thoai thoải như bức trường thành trườn về
phía biển. Trong thung lũng ấy còn có những con đường thảm nhựa phẳng lỳ, êm
du, sạch bóng, uốn lượn quanh dưới chân núi, vòng theo những triền đồi như thể
đưa ta băng qua núi, xuyên qua rừng, dập dìu bên biển. Vẻ đẹp của nước non rừng
biển Đồ Sơn ít có sự cắt gọt theo kiểu “hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng”
hay “học đòi bắt chước vẻ hoang vu” ấy không chỉ tạo nên một bầu không khí
trong lành cho vùng biển mà còn gợi lên cái vẻ hoang sơ của tự nhiên. Một vẻ đẹp
thơ mộng và trữ tình của một vùng biển đảo trời mây sóng nước.
Thiên nhiên Đồ Sơn vốn đã thơ mộng và trữ tình. Vẻ đẹp
ấy còn được bổ sung, tôn tạo, gìn giữ, chăm chút của bao thế hệ người đất cảng.
Bởi thế cảnh đẹp hữu tình của Đồ Sơn còn được lưu lại trong lòng lữ khách với
những ấn tượng khó quên. Đó là những vẻ đẹp mang dấu ấn tài hoa do đôi bàn tay
con người làm thành và trải qua năm tháng. Đồ Sơn có vẻ đẹp cổ kính mang đậm điệu
hồn dân tộc qua các công trình kiến trúc tâm linh như thể tháp Tường Long (công
trình kiến trúc của Phật giáo được làm từ thời Lý cùng với tháp Bảo thiên ở
Thăng Long, theo sách “Đại Nam thống nhất chí” tháp có 9 tầng, cao một trăm thước,
dựng trên đỉnh Long Sơn, cao hơn một trăm hai mươi mét so với mực nước biển,
tháp từng được coi là tiền tiêu trên vùng biển Đông Bắc, tháp ra đời đánh dấu một
mốc phát triển về văn hoá ở thời Lý trên đất Hải Phòng, hội nhập với Phật giáo)
hay có những vẻ đẹp mang dấu ấn giao thoa của hai nền văn minh Đông Tây hồi cuối
thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX qua các công trình kiến trúc Pháp Việt như thể hải
đăng Hòn Dấu (công trình được làm từ năm 1892 theo kiến trúc Pháp với toà nhà
hai tầng bề thế nay dùng làm bảo tàng và tháp chính cao năm tầng, đỉnh đèn cao
một trăm bốn mươi mét so với mực nước biển, có độ chiếu xa khoảng bốn mươi
kilômét, nhìn từ xa nhọn hải đăng giống như một pháo đài trên biển và được mệnh
danh là mắt ngọc của Tổ quốc), biệt thự của vua Bảo Đại (công trình này ban đầu
của toàn quyền Đông Dương làm để nghỉ dưỡng sau tặng lại cho vua Bảo Đại làm
“cung điện” nghỉ ngơi duy nhất ở miền Bắc; dinh hiện tại được phục dựng lại
theo đúng nguyên bản hình bát giác cửa vòm trên đỉnh đồi với phong cách cổ điển
của châu Âu cùng lối lên nhỏ uốn lượn quanh sườn đồi, toà nhà trông thẳng ra biển,
có một tầng hầm và hai tầng nổi; tầng hầm làm kho, bếp, nơi ở của gia nhân; tầng
một là phòng khách, phòng làm việc, phòng ăn, phòng ngủ của vua và hoàng hậu
Nam Phương; tầng hai là phòng ngủ của các công chúa và hoàng tử), lâu đài Vạn
Hoa tráng lệ với những câu chuyện ly kỳ về việc thi công và nguồn tài chính để
tạo ra công trình (công trình nằm kề bên mép biển, ở mỏm núi cuối cùng của dãy
chín ngọn chầu biển và được làm theo phong cách kiến trúc Gothic, cao hơn ba
mươi mét, trong đó móng dày khoảng hơn một mét, cao hơn hai mươi mét làm bằng
đá xanh, đêm ngày có sóng vỗ rì rào, ì oạp tạo nên những bản nhạc khi khoan khi
nhặt du dương, trông từ biển vào giống như một pháo đài thời trung cổ ở châu Âu).
Tất cả những khối kiến trúc đó rất hài hoà với tự nhiên, làm thành những điểm
nhấn, tạo ấn tượng cho bức tranh đồi núi biển rừng của Đồ Sơn; quyến rũ đến nao
lòng người đến và trở thành một điểm chếch in lý tưởng của biết bao người.
Vùng biển lưu dấu những chiến công lẫy lừng
Đồ Sơn không chỉ xinh đẹp, thơ mộng mà còn được mệnh
danh là vùng biển của những huyền thoại. Cùng với những vẻ đẹp hùng vĩ, mặn mòi,
nên thơ của vùng cửa biển, Đồ Sơn còn lưu dấu trong mình biết bao chiến công lẫy
lừng mà ít có một vùng đất nào sánh được. Từ thủa lập quốc, vào thời Hùng Vương,
Đồ Sơn thuộc bộ Dương Tuyền, Nuôi Nường – Kiềm Hạt Đại tướng quân đã cùng cư
dân lập làng sản xuất và bảo vệ vùng biển đảo. Đến cuối thập niên thứ ba của
công nguyên thứ nhất, nữ tướng Lê Chân đã lập “Nghĩa dũng quân” chiêu mộ trai
tráng vùng biển đảo Đồ Sơn theo Hai Bà Trưng đánh đuổi Tô Định góp phần đánh hạ
sáu mươi lăm thành trì khiến Tô Định phải trốn chạy về nước. Rồi đến năm 938 và
năm 981 ngư dân Đồ Sơn đã giúp Ngô Quyền và Lê Đại Hành đóng cọc trên sông Bạch
Đằng để biến dòng sông “Bát ngát sóng kình muôn dặm/ Thướt tha đuôi trĩ một màu”
trở thành mồ ma của thuỷ quân Nam Hán và thuỷ quân nhà Tống khiến các triều đại
phong kiến phương Bắc phải kinh hồn bạt vía. Sang đến đời Trần, dưới sự chỉ huy
của Quốc công tiết chế Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn, Đồ Sơn lại được lựa
chọn làm căn cứ của bộ binh và thuỷ binh để chống lại quân xâm lược Nguyên -
Mông, một đội quân hùng mạnh nhất thế giới khi đó. Trong cuộc kháng chiến lần
thứ hai (1285), người Đồ Sơn đã bảo vệ an toàn cho vua Trần Nhân Tông và Thượng
Hoàng Trần Thánh Tông, Thái sư Trần Quang Khải khi từ Vạn Kiếp theo dòng sông Lạch
Tray để vào Thanh Hoá. Tiếp đến trong cuộc kháng chiến lần thứ ba (1288) chính
tại Đồ Sơn đã diễn ra và đại thắng với hai trận đánh lớn của quân dân nhà Trần
với đội quân Nguyên – Mông do Aguructri và Abatri chỉ huy ở núi Tháp Nhĩ Sơn, Ô
Mã Nhi chỉ huy ở cửa Đại Bàng chấm dứt vĩnh viễn âm mưu xâm lược Đại Việt của đế
quốc Nguyên – Mông
Đồ Sơn với vị trí chiến lược đặc biệt ở hành cung Đông
Bắc không chỉ là những chiến trường oanh liệt của một thời chống giặc phương Bắc
đã qua mà còn là một chứng nhân của lịch sử giữ nước thời hiện đại mà đỉnh cao
là hai cuộc kháng chiến chống Thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Hãy còn đó Bến
Nghiêng, nơi đã chứng kiến những tên thực dân Pháp cuối cùng lên tàu há mồm vào
ngày 15 tháng 5 năm 1955 để rút về nước chấm dứt một thế kỷ xâm lược của người
Pháp ở Việt Nam. Và cũng cách đó không xa, dưới chân núi Vạn Hoa, tại Vạn Xép
(Bến tàu không số K15 – K là ký hiệu của cảng, 15 là số hiệu Nghị quyết của
Trung ương Đảng về đường lối và phương pháp cách mạng tại Hội nghị Trung ương Đảng
lần thứ 15), vào lúc 22 giờ ngày 11 tháng 10 năm 1962 chiếc tàu gỗ đầu tiên chở
ba mươi tấn vũ khí tiến về Cà Mau để chi viện vũ khí chiến trường miền Nam, mở
đầu cho tuyến đường lịch sử - đường Hồ Chí Minh trên biển. Sau mười năm hoạt động,
kể từ lúc xuất phát chuyến tàu đầu tiên cho đến khi hoàn thành xứ mệnh lịch sử,
ngày 16 tháng 10 năm 1962, Bến tàu không số K15 ấy đã chứng kiến gần một trăm
lượt tàu vận tải đưa hàng nghìn cán bộ và hàng vạn tấn hàng hoá, vũ khí để trang
bị và chi viện cho chiến trường chống Mỹ - Nguỵ, góp phần giải phóng miền Nam
thống nhất nước nhà. Bây giờ, phía trước Đài kỷ niệm Đường Hồ Chí Minh trên biển,
nằm trên mặt biển vẫn còn đó mười lăm cột bê tông - những chân cọc một thời dùng
để làm cầu tàu đưa đón những con tàu không số vào Nam. Đài kỷ niệm Đường Hồ Chí
Minh trên biển sừng sững, hiên ngang nơi đầu sóng ngọn gió và mang trong mình
niềm tự hào bất diệt là “Cột Km số 0” - nơi khởi đầu cho một tuyến đường lịch sử
vẻ vang của dân tộc. Giờ đây, hẳn là trong “sổ vàng” truyền thống của Hải Phòng
nói riêng và cả nước nói chung chắc chắn sẽ không thể nào thiếu được những
trang sử hào hùng đã từng diễn ra ở Bến tàu không số K15. Đồ Sơn - Bến tàu
không số K15 vừa là chứng nhân lịch sử vừa là hậu phương lớn, vững chắc của những
con tàu không số trong suốt một thời kỳ hoa lửa sẽ còn được nhắc mãi, khắc ghi.
Và rồi đây bến tàu ấy cùng với các bến tàu không số Lộc An (Bà Rịa – Vũng Tàu),
Vũng Rô (Phú Yên), Vàm Lũng (Cà Mau) sẽ mãi là những trang sử vẻ vang; là điểm
đến để giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ và cũng là nơi về nguồn thu hút, hấp
dẫn rất nhiều du khách.
Một ngày với Đồ Sơn là chưa đủ nhưng những gì trông thấy
về một vùng đất nơi đầu sóng ngọn gió đẹp đẽ, thơ mộng hẳn đã để lại một ấn tượng
khó phai trong lòng không ít du khách. Có lẽ chẳng phải người bây giờ đến đây mới
nghĩ thế. Cách đây gần một trăm năm người Pháp và ông vua Bảo Đại đã từng sửng
sốt và ngây ngất trước vẻ đẹp có một không hai của Đồ Sơn và lựa chọn chốn này
làm nơi nghỉ dưỡng, thư giãn. Và con mắt tinh đời của Vũ Bằng, từ năm 1942, đã
phát hiện ra tiềm năng du lịch rất lớn của Đồ Sơn: “Trừ mấy trận bão lớn ra không kể,
Đồ Sơn tiến một cách rất êm đềm từ một cái bãi hoang vu không đáng đồng xu nhỏ
đến một chỗ thừa lương mỗi năm thu hàng triệu bạc, có năm cây số đường rải nhựa
và hàng trăm ngàn nhà gạch, biệt thự và hiệu buôn”. Tiềm năng ấy giờ đây vẫn
còn nguyên giá trị.
Phan Ngọc Anh
© Tác giả giữ bản quyền. Vui lòng ghi rõ nguồn Bông Tràm khi sử dụng lại nội dung này.
|
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét