- Trang chủ
- |
- Giới thiệu
- |
- Quy ước
- |
- Tác giả
- |
- Thư ngỏ
- |
- Lá thư Bông Tràm
Tác phẩm kỷ niệm 10 năm hoạt động của Bông Tràm, có sự góp mặt của 50 tác giả với trên 100 tác phẩm. Sách dày 312 trang, khổ 13 x 19 cm, giá 100.000 đồng.
Rồi
nội kể chuyện trên trời dưới đất, chuyện của người đã sống gần trăm năm, đã vắt
qua hai thế kỷ của chiến tranh loạn lạc, của cảnh làm dâu, làm vợ, làm mẹ, làm
bà… của bao nhiêu thăng trầm cuộc sống thì thiếu gì chuyện để kể.
Nhưng
hễ sắp chia tay nhau là nội nắm tay tôi lắc lắc:
-
Lần sau tới thăm nhớ mua cháo cổ vịt cho nội nữa nha Yến!
Tôi
dạ mà không biết vì sao nội lại ưa cái cổ vịt như vậy, chỉ là một ít da dai dai
mềm mềm nhai không nhừ ra được, nuốt thì đến mắc cổ thôi chứ có gì mà ngon. Tôi
thích ăn cháo vịt, nhưng chỉ ăn phần nạc như ức hay đùi thôi. Còn nội lại ưa
cái cổ là sao nhỉ?
Nội
tôi tuổi 80 không còn răng nữa, chỉ mấp mấp mấy miếng da cổ vịt rồi ném phần
xương cho con Vàng, phần da nội lấy cái kéo cắt nhỏ ra rồi mới nuốt. Tôi mấy lần
mua cháo nhưng yêu cầu lấy phần nạc cho nội, thì bà đều không chịu ăn, nói ăn nạc
như củi mục, phải ăn da, nhất là da cổ thì mới đúng là phần ngon nhất của con vịt
Thím
Út tôi ở trong phòng nói vống ra:
-
Ôi… bà nội của mày kiếm chuyện vậy thôi Yến ơi! Chứ đời này mật ít ruồi nhiều,
có cái ăn là may lắm rồi, gì mà phải đòi cho được cái cổ vịt chứ hổng chịu thịt
vịt!
Nội
tôi lắc đầu cười trừ. Tôi thì lặng lẽ mua cháo cổ vịt cho nội mỗi khi đến thăm.
***
Nội tôi có cuộc đời buồn như bao người phụ nữ
của thời chiến tranh. 18 tuổi cha mẹ gả chồng, về làm dâu nhà giàu tưởng được
an nhàn tấm thân, ai ngờ chiến tranh ập đến, bom rơi đạn lạc, phút chốc sự giàu
sang đã tan tành trong ngọn lửa của đạn bom. Cả nhà phải “chạy giặc” để tìm sự
sống khi nội mang bụng bầu đứa con thứ 4 ở tuổi 24. Hồi đó nào có biện pháp ngừa
thai gì đâu, vợ chồng cứ sinh con đẻ cái
liền tù tì vậy thôi.
Rồi
trong những lần dăt díu nhau “chạy giặc” ấy, ông nội tôi đã bị trúng đạn và mất.
Bà nội tôi vừa sinh con đã phải đi cấy lúa, gặt lúa, làm đủ mọi việc để có cái
ăn cho đại gia đình gồm cả cha mẹ chồng. Rồi ông bà cố của tôi quyết định gả
con dâu để có chút tiền sinh lễ của nhà trai mà trang trải cuộc sống cho gia
đình.
Bà
nội tôi gạt lệ về làm vợ người khi đứa con thứ 4 của mình vừa lên ba tuổi. Cha
tôi là trai lớn, cũng mới 10 tuổi thì biết làm gì hơn ngoài việc dỗ em cho mẹ
đi lấy chồng!
May
chồng sau của nội tôi tốt bụng, bởi vợ ông cũng mất vì chiến tranh khi chưa kịp
có với nhau đứa con nào. Ông và bà nội tôi sinh được một người con, ông không gọi
đó là “thằng Hai” mà cho gọi tiếp theo thứ của những đứa con “dòng trước” của vợ.
Tức là chú Út tôi sau này
Khi
chú Út tôi tầm 20 tuổi thì ông nội mất (cha tôi dạy phải gọi chồng sau của bà nội
là ông nội cho thân thiết). Đám tang ông vui lắm, vui trong mắt cô bé lên 10 là
tôi bởi vì đám có nhiều người đội tang quá! Trong khi ông nội chỉ có một đứa
con là chú Út thôi mà. Thì ra, bốn anh em của cha tôi đều thọ tang “cha dượng”
bằng dây rơm mũ bạc như cha ruột.
Người
đi đám khen rầm rì, rằng bà Sáu khéo dạy con, ông Sáu có phước quá nên đám con
của vợ đều để tang ổng thật là xôm tụ.
Cha
tôi thì bảo, biết là “ba năm tang khó” nhưng hai mươi năm nay đã gọi ông ấy là
“ba”, ông cũng gần gũi dạy bảo con của vợ rất nhiều. Dù anh em của cha tôi sống
với ông bà nội ruột, nhưng lâu lâu người cha dượng này về thăm, ở lại mấy ngày,
đều chơi đùa hoặc dạy bảo bốn thằng con của vợ việc này việc nọ.
Ông
bà nội của cha tôi mất vì tuổi già, ngày cha tôi cưới vợ, chính người cha dượng
này đi hỏi cưới cho cha, thì làm sao khi ông mất, cha tôi không thọ tang cho được?
Nhưng
rồi sau khi ông mất, cuộc làm ăn của gia đình không suôn sẻ như lúc trước. Chả
là ông làm “thầu chợ”, bà nội tôi có sạp vải ở chợ đó, chú Út tôi chỉ việc ăn học
và phụ ba mình… đếm tiền là xong.
Rồi
những đồng tiền đó đã làm chú ỷ lại, không học hành nữa, mà tụ tập bạn bè ăn
chơi và… sưu tầm đồ cổ. Trời ơi, thằng con trai mới hơn 20 chưa vợ mà biết gì về
đồ cổ để sưu tầm? Cái lư hương đồng, cái chén thời vua Càn Long, bức tượng nữ
thần Apsara cụt tay, cái bình toong đựng nước mà người bán quảng cáo là trước
thời 1945 ấy, chú Út tôi đều sưu về.
Bao
nhiêu tiền của gia đình đổ vào các món đồ cổ đến khánh kiệt. Nhưng phiền là khi
chú cần đem món nào đó ra bán lại thì hóa ra… là đồ cổ giả.
Buồn
tình chú đòi nội tôi “cưới vợ để làm ăn” chứ không thèm chơi đồ cổ nữa. Thì cưới,
dù sau chú cũng gần 30 rồi. Nhưng thím Út không phài là mẫu phụ nữ hay lam hay
làm, thím có nghề thợ may, nhưng rồi vin cớ sạp vải mẹ chồng đủ ăn đủ mặc cho
gia đình nên thím bỏ nghề may chuyển sang nghề… điều binh khiển tướng.
Chú
tôi gia nhập đội quân cầu đường đi làm xa hàng tháng trời, ở nhà thím chỉ đi điều
khiển mấy con bài xanh đỏ đó mà thôi. Sau này hết “mô đen” đánh tứ sắc, thì
thím quay sang chơi bài tây, chơi lô tô vì chỉ cần một bàn thắng là bằng cả
ngày làm.
Thím chỉ sinh một đứa con duy nhất rồi không chịu sinh nữa, bé Cà Chua từ ngày còn ẵm
ngửa đã theo mẹ ra sới bạc nên nó cũng không sạch sẽ bụ bẫm gì. Bà nội tôi ý kiến
mấy lần nhưng con dâu vẫn chứng nào tật đó, chú Út đi làm thì thôi, về là vợ chồng
rầy rà chuyện vợ bỏ nhà bỏ cửa ngồi lê đôi mách. Nhưng thím Út cãi già, rằng
mình chơi bạc do chồng đi hoài, ở nhà “buồn quá”.
Chú
Út tôi im lặng như chấp nhận, bởi chú không tìm được công việc ở gần, phần vì
“tiền sự” chơi đồ cổ dỏm của chú bị láng giềng gièm pha nhiều quá, chú cũng
“quê độ”.
Gia
đình vì thế mà tồn tại chứ không phải vì hạnh phúc mà phát triển.
Nội
tôi sau tuổi bảy mươi thì không còn tinh tường để mua bán nữa. Phần vì thời buổi
này sạp vải ở chợ xã ế lắm, người ta chỉ ưa mua quần áo may sẵn, về mặc liền
trong một phút ba mươi giây, chứ ai lại đi mua vải, chờ may, vừa tốn tiền vải,
vừa phải trả tiền may mà con mất công chờ đợi như thế.
Dẹp
sạp vải, nội bán sạp trầu cau để đỡ nhớ không khí chợ của mấy chục năm nay.
Nhưng rồi trầu cau cũng không còn ai ăn nữa, thảng hoặc có đám cưới đám hỏi thì
mới tìm ít trái cau thôi. Thành ra nội chính thức “về hưu” ở tuổi 75.
Mấp
mấp miếng da cổ vịt, nội bảo:
-
Hồi đó sau khi ông nội con chết, nhà nội… bốn đứa con trai, cha mẹ chồng già, nội
xem như là lao động chính thì làm sao đủ thức ăn hả con? Đi “công vạn” cho người
ta, nhiều khi không nhận tiền công mà nhận bằng món gì chủ ruộng có. Một hai
con vịt, có khi vài ký thịt heo, hoặc nửa thúng cá…
-
Trời ơi… nửa thúng cá ăn sao hết hả nội?
-
Cha mày… làm gì mà la lớn cho nội giật mình vậy? Nhà tám miệng ăn, nửa thúng cá
tiết kiệm lắm cũng có một tuần thôi. Con nít hồi đó không có quà bánh gì cả, chỉ
ăn cơm với cá nên tốn lắm con à! Còn thịt vịt hả, phần đùi và cánh là của cha mẹ
chồng, phần ức là của đám con, nội chỉ còn cái cổ và cặp chân thôi. Ăn riết rồi
thành quen cháu ạ!
-
Không được! Nội ăn vậy làm sao có sức mà đi làm? Dù sau cũng phải chừa phần
ngon cho mình ăn chứ!
-
Là do phụ nữ bây giờ cuộc sống khá giả hơn nên con nói vậy thôi. Chứ hồi đó… làm
con vịt chưa xong, đám con đã hau háu đứng chờ, làm sao mình ăn phần ngon cho được?
Tôi
lặng lẽ quay đi quẹt dòng lệ nóng. Cuộc sống của nội tôi, hay tất cả phụ nữ thời
ấy đều cơ cực đến thế sao? Ngay cả miếng ăn cũng chưa được nếm miếng ngon trọn
vẹn. Mà tất cả đều dành cho chồng, cho con, cho cha mẹ chồng…
Còn
phụ nữ chúng tôi bây giờ, chỉ cần phật lòng một chút là ẵm con về ngoại, là đòi
ly thân, ly hôn cho tan đàn xẻ nghé. Mấy ai đã tự nhìn lại mình để gìn giữ mái
gia đình?
-
Thôi, con tính vầy nhen! Hồi đó nội toàn ăn cổ vịt không à, đời giờ hết khổ rồi,
nội ăn phần thịt đi. Từ lần sau con sẽ mua thịt cho nội, con không mua phần cổ
nữa đâu!
-
Bây mua thịt… nội không ăn đâu à! Cái gì cũng có sự thân quen con ạ. Con chịu
khó ăn từ từ, nhai chậm chậm sẽ thấy thịt cổ vịt có cái ngon mà không phần nào
của con vịt có được. Vừa mềm vừa béo, lại không ngấy mỡ, cũng không xộp xộp như
củi mục của phần thịt, vậy đó.
Tôi
mấy lần cũng bắt chước nội thử ăn phần cổ vịt coi nó ngon lành thế nào. Nhưng
trời ạ, nó chỉ dai dai, nhai hoài chán quá, muốn nuốt trộng cho xong. Mà nuốt
nhanh quá thì dễ mắc cổ, chứ có ngon lành gì đâu.
Vậy
là tôi nói dối là bà bán cháo vịt quen của nội đã… nghỉ bán rồi. Thay vào đó là
bánh bò hay sương sâm, sương sa gì đó. Thảng hoặc tôi còn biếu nội ít tiền.
Nhưng hầu như nội đã quên nhiều nhớ ít nên cầm tờ tiền cứ hỏi “Này là nhiêu
con” “Dạ một trăm ngàn”. “Ý là nó mua được nhiêu gạo, nhiêu muối”. Dạ khoảng 10kg
gạo hoặc 20kg muối ạ”.
Nội
gật gù ra vẻ hiểu rồi. Bởi cuộc đời của nội, từ miệt sông nước Cửu Long rẽ
nhánh Cái Bè có dòng sông mênh mông phù sa ấy, rồi chạy giặc lên miền Đông Nam bộ với đàn con và cha mẹ chồng già, thì điều
trăn trở lo lắng duy nhất là gạo với muối chứ không phải thịt cá gì.
Hôm
nay tôi lại mua cháo cổ vịt đến, nội vui vẻ cất hai lớp mền để ngồi dậy. Rằng
“Bà bán cháo vịt nay bán lại rồi à? Lâu nay bây đi làm ở đâu mà không tới thăm
nội, nội thèm cháo cổ vịt mà gần đây không ai bán”.
“Không
ai bán” là thím Út tôi nói với nội thôi, chứ đi xa một chút cũng có người bán
mà. Chỉ là, thím bảo, “Ăn thịt cổ vịt dai nhách, bà nội mày mắc cổ, bả chết ai
chịu trách nhiệm?”.
Nội
tôi cười buồn “Nội tám mươi rồi, sống cũng đủ để chết rồi. Tại thím bây nói vậy
thôi”.
Tôi
nghe mình có lỗi, chỉ vì bản thân chê thịt cổ vịt không ngon mà nói dối là người
ta không bán để buột nội ăn phần ức, phần đùi mà không chịu hiểu là nội chỉ
thích phần cổ vịt mà thôi.
Nội
tôi về miền mây trắng nay đã 6 năm rồi.
Chiều
nay mưa đầu mùa dai dẳng quá, cơn mưa vắt ngang bầu trời từ bốn giờ chiều tới bảy
giờ tối vẫn chưa có dấu hiệu ngớt. Con trai tôi đội mưa mang về mấy phần cháo vịt
hí hửng “Mưa khỏi nấu cơm mẹ ơi, ăn cháo cho ấm bụng nha!”
Mùi
hành mùi tiêu thơm nức cả ngày mưa. Chỉ là dĩa gỏi vịt thì… ơ kìa… chỉ có vài
lát thịt ức, còn lại là phần thịt cổ vịt đầy cả dĩa. Bất giác tôi nhớ nội đến
rơi nước mắt.
Đào Phạm Thùy Trang
© Tác giả giữ bản quyền. Vui lòng ghi rõ nguồn Bông Tràm khi sử dụng lại nội dung này.
|
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét