- Trang chủ
- |
- Giới thiệu
- |
- Quy ước
- |
- Tác giả
- |
- Thư ngỏ
- |
- Lá thư Bông Tràm
Tác phẩm kỷ niệm 10 năm hoạt động của Bông Tràm, có sự góp mặt của 50 tác giả với trên 100 tác phẩm. Sách dày 312 trang, khổ 13 x 19 cm, giá 100.000 đồng.
Hè năm ấy tôi dấn thân vào một việc mà kể từ nhỏ tới lớn tôi chưa từng làm. Dĩ nhiên là không có tý kinh nghiệm nào và vô cùng mạo hiểm. Nhưng người xưa có câu “đói thì đầu gối cũng phải bò”. Thôi kệ phải liều, biết đâu “không thành công, cũng thành nhân”. Sống là trải nghiệm mà.
Tôi
xuất thân nghề giáo, vào những năm của thập kỷ 80; 90, Trong thời kỳ bao cấp,
lương khởi điểm theo 3 mức cho 3 cấp học như sau: 50 đ 55 đ, và 60 Việt Nam đồng.
Giai đoạn khó khăn chung của đất nước, đồng lương không đủ sống. Ra trường một
vài năm, đến lúc cũng phải lập gia đình và sinh con. Món nợ cơm áo lúc này càng trở nên bức thiết
hơn bao giờ hết. Cuộc sống bây giờ không chỉ có mây bay gió lượn mà có bộn bề
trăm thứ bủa vây. Làm thế nào để trang trải cuộc sống và lo được cho con cái?
Đó là câu hỏi đặt ra cho bất kỳ ai, không cứ kể là dân sư phạm mà kể cả nhiều
ngành nghề sự nghiệp hành chính khác. Những người đồng nghiệp xung quanh chúng
tôi, mỗi người có một lựa chọn khác nhau. Ai nhảy việc thì nhảy. Ai yêu trường
mến lớp thì trụ lại trên bục giảng nhưng về nhà phải kiếm việc làm thêm. Hồi đó
tuyệt đối không dạy thêm, nếu có dạy thì dạy miễn phí. Thế là có nhiều cô giáo
thì về làng làm thêm ruộng vườn, chăn nuôi. Có người thì đi bỏ bia, bỏ kẹo mối.
Có người đi bán xôi sáng dậy từ lúc 3 giờ sáng nấu xôi đem đi bán. Đến 7 h xong
hay không xong cũng vội về để đi dạy.
Năm ấy nghỉ hè, (thời đó nghỉ hè 3 tháng) cùng với chị bạn hàng
xóm đang thất nghiệp, hai đứa rủ nhau đi buôn. Hành trình đi là vào chợ Cồn (Đà
nẵng) nhập các loại thủy hải sản khô như cá khô, tôm khô… và đường bánh (đường
nấu từ mía và đúc thành từng bánh như cái chén ăn cơm) đem ra bán ở chợ huyện
của một thị trấn, địa điểm này cách Huế hơn 250 km về phía bắc. Ý định vừa đi
vừa thăm dò thị trường xem chợ huyện đó những mặt hàng nào cần thiết sẽ nhập
sau.
Hai chị em đi chợ Cồn đóng hàng rồi thuê xe chở ra ga Đà Nẵng,
để đi tàu ra chợ thị trấn đó bán xong rồi mới quay về Huế. Lần đầu dấn thân vào
công việc lạ lẫm, va chạm nhiều hạng người: dữ có, hiền có, thanh có, thô
có,v.v... thôi thì đủ loại người trên đời. Nên cũng vỡ ra nhiều điều trên một
đoạn đường đời mà trong sách vở nhà trường chưa được đề cập đến.
Trước tiên kể về trải nghiệm đi tàu. Vào những năm 80-90 của thế
kỷ trước, tàu chợ không khác gì cái tên gọi của nó. Toa nào toa nấy, người và
hàng hóa kể cả gà vịt heo chó… chen chúc nhau không có thứ lớp, trật tự gì
hết. Mạnh ai nấy chen. Người ngồi, kẻ nằm la liệt ngổn ngang. Người thì nằm
trên các bao hàng chông chênh, người thì trải chiếu thò chân vào dưới gầm ghế,
đầu nhoài ra ngoài lối đi. Có người mắc võng từ cửa sổ này sang cửa sổ khác
chiếm cả một khoảng không không gian hiếm hoi, ngay trên đầu, trước mặt hành
khách. Dù chẳng ai muốn nhưng cũng phải chấp nhận vì trong hoàn cảnh này thì ai
ngồi được đâu cứ ngồi, ai nằm được đâu cứ nằm. Tàu quả là chật như nêm. Có người
bước lên tàu chỉ đứng được một chân vì hết chỗ. Có người phải đu bám ở cửa lên
xuống, có người đứng ở chỗ nối toa, thậm chí có nhiều người leo lên ngồi, nằm
trên nóc tàu, bất chấp nguy hiểm. Ai đi tàu lúc này cũng bầm dập tả tơi như vậy
cả. Đã thế, lâu lâu tàu lại trở chứng bị chết máy bất thình lình hoặc tránh tàu
có khi cả vài tiếng đồng hồ là chuyện thường. Có khi đi khoảng vài ba trăm km
mà phải đi ba ngày mới tới nơi.
Hành khách trên tàu ngủ gà ngủ gật, phờ phạc, tả tơi. Nếu chịu
khó quan sát thì cũng khối chuyện bi hài vui phải biết. Đêm xuống, tàu không có
điện. Người nằm ngủ, trở mình nghiêng qua, nghiêng lại ôm trúng cái mông của bà
khách đang ngủ say, ông ta tưởng mình ôm cái gối sao nó êm quá là êm. Người
khách khác làm nghề buôn heo nằm trở đầu lại cũng đang yên giấc điệp, bị bà
buôn gạo nằm kế bên gác nguyên cái đùi to chà bá lửa lên ngực anh ta. Anh lái
heo ngủ say, hay tay chới với và ú ớ gì trong miệng. Trong cơn mơ anh tưởng
trời sập và mình bỗng trở thành anh hùng, đang ra sức chống đỡ trời lên chẳng
khác nào “đội đá vá trời” trong thần thoại. Có người đang ngủ say quá mà buồn
tiểu lại mơ là mình đang đứng bên bờ suối, gió mát hây hây, chim kêu vượn hú
thế là cứ mở van cho nước chảy róc rách. Đến lúc nghe mùi khai bốc lên, mọi
người mới tá hỏa ra và hô hoán lên là có người đái dầm.
Trên ghế ngồi dựa lưng vào thành tàu, mọi người cũng đang thiu
thiu ngủ. Một quý ông (trạc tuổi khoảng ba mươi) khuôn mặt cũng lịch lãm, trí
thức nhưng tàu xe vậy nên cũng te tua mệt mỏi lắm! Ông ngã đầu ngủ, tàu lắc lư,
ông nghẹo đầu qua một bên, nghẹo dần, nghẹo dần đến lúc đầu ông nghiêng hẳn lên
vai cô gái ngồi kế bên. Thấy vật gì đè nặng trên người mình, cô chợt thức giấc
và như chợt hiểu ra, cô vội xô anh ta về đúng chỗ anh ta rồi mắng: Anh ngủ gì
mà kỳ vậy?
Anh ta tỉnh giấc và rối rít xin lỗi:
- Xin lỗi cô nhé! Tôi mệt quá nên ngủ say. Cứ tưởng là cái gối
của tôi chệch qua bên này nên vô ý quá. Tôi thành thật xin lỗi!
- Tôi xin chuộc lỗi. Lúc nãy tôi lỡ nghiêng qua bên vai cô, giờ
cho cô nghiêng lại bên vai tôi, như vậy tôi cũng đỡ áy náy và chúng ta huề nhé!
Cô gái nghiêm mặt và từ tốn bảo:
- Anh cũng có óc hài hước đấy nhỉ.
Nhưng tôi thì không thuộc tuýp người thích đùa, nhất là xe tàu mệt lữ như thế
này.Từ bây giờ anh có ngủ thì hãy dựa hẳn ra phía sau thành tàu nhé.
Đi bầm dập te tua vậy rồi cũng tới
nơi. Buổi sáng, xuống ga thị trấn X, sau khi khệ nệ bưng những bao hàng xuống,
hai đứa đang đứng thở, nghỉ ngơi lấy sức. Thì bỗng một nhóm người mặc áo thuế
vụ vẻ mặt đằng đằng sát khí tới “hỏi chuyện”. Khi đó cảm giác rất sợ, mặt lúc
này chắc là xanh ngắt như tàu lá chuối. Tim đập hồi hộp lòng đầy lo lắng vì nếu
bị trịch thu thì kể như mất vốn luôn! (Lúc này nếu đo huyết áp thì không biết
là vọt lên bao nhiêu, may mà hồi đó còn trẻ, không có bệnh lý gì kể cả tim
mạch.) Thuế vụ tra vấn một hồi, không nhớ diễn biến chi tiết mình đã đối phó thế
nào và xoay xở ra sao nhưng cuối cùng sau khi quần thảo khủng bố về mặt tinh
thần rồi cũng được thả cho đi. Tụi mình gọi người tới chở vào chợ thị trấn bằng
các phương tiện như xe kéo, hoặc xe đạp thồ tại địa phương.
Vào đến chợ, sau khi tìm chỗ ngồi
thuận lợi, dọn hàng ra để trưng bày sao cho bắt mắt và việc mua bán diễn ra
thuận lợi, lác đác đã có khách tới mua hàng. Hai đứa bắt đầu “sự nghiệp bán
hàng” lần đầu tiên trong đời, trước đó có quan sát chị bán hàng sĩ và lẻ trong
chợ Cồn rồi nên cũng có học hỏi kinh nghiệm. Công việc diễn ra thuận lợi, nhưng
cũng có trường hợp này ứng với một câu nói của dân gian: “chó ỷ tại nhà, gà ỷ
tại chuồng” không phải không xảy ra. Có chị khách cỡ trạc tuổi mình, vừa cắp
chiếc rổ tới, chưa mua nhưng đã hăm he phủ đầu một câu rằng: “hai cái con Huế
này, cân kéo cho đúng không thôi tau thu cân đi nghe chưa!”. Mình không nói
chúng mình từ đâu tới nhưng chắc có vẻ thấy lạ và nghe giọng nói cũng như cách
ăn mặc nên chị ấy đoán thế!
Chị bạn mình nói:
- Ê cho đính chính chút: Đây sống ở
Huế nhưng gốc Bắc và Huế lai thôi! chứ Huế rặt ai thèm lặn lội đi bán đồ khô
như tụi này. Họ có bán là bán vàng kìa! ke... ke...! Thôi giờ mua gì nào, cân giáp
cho, bán để làm quen thôi! Giao dịch trôi chảy, thuận lợi!
Việc bán hàng diễn ra trong ba ngày
thì giải quyết hết hàng. Về phòng trọ hai đứa giở sổ sách ra tính toán lại thì
thấy có lời chút đỉnh, sau khi trừ mọi chi phí. Lần đầu lấn sân sang lĩnh vực
không qua đào tạo, không thuộc chuyên môn của mình nhưng như vậy cũng có thể
gọi là thành công bước đầu. Tụi mình vừa đi vừa học hỏi và dò đường đi nước
bước. "Vạn sự khởi đầu nan" và tự an ủi nhau vậy là: “gioải rồi”. Hai
đứa lòng cũng thấy vui, và tiếp tục sự nghiệp nhỏ lẻ của mình thêm vài chuyến
nữa tại chợ này. Một hôm xong việc hai đứa bàn nhau nhảy tàu ra Vinh xem sao?
Thế là mấy chuyến sau đi thẳng ra chợ Vinh dài đường hơn (Huế-Vinh 367 km)
nhưng bán được hàng nhiều hơn và nhanh hơn. Xem lại các chuyến thì có nhiều
chuyến lời, tuy vậy cũng có chuyến ngang vốn có khi còn lỗ chút ít nếu gặp
không may. Tổng kết lại toàn bộ sự nghiệp buôn bán ba tháng hè, trừ các chi phí
cũng có đồng ra đồng vào trang trải thêm cho cuộc sống và đặc biệt đời dạy cho
khôn ra đôi chút he… he… Đó cũng là học phí cần phải trả cho cuộc đời.
Kết thúc ba tháng hè, BH trở lại
trường làm công việc chính của mình, cô hàng xóm không có BH đi cùng nữa cũng
buồn nên nghỉ buôn chuyến mà về làm tiểu thương chợ Phú Bình thuộc phường Phú
Bình với căn hàng cố định kiếm sống qua ngày đủ nuôi con ăn học. Còn BH ngoài
công việc chính thì chợ đò cơm nước, chăm con và tranh thủ ngoài giờ làm thêm
một số việc khác. Như về chợ Phú Bình (thuộc đường Đào Duy Anh Huế) bán trái
cây, khi thì lấy bia của anh chị Diên (D) ở bên nam sông Hương ra bỏ mối cho 5
quán nhậu ngoài thị trấn Phò Trạch, Phong Điền. (cuối bài kể một chút về anh
D). Việc buôn bán xem như thời vụ thôi, thời gian diễn ra không lâu, chỉ có
công việc đan len là kéo dài lâu hơn cả, cho đến khi áo len hết thời hoàng kim,
không còn được ưa chuộng nữa thì mới nghỉ làm). Khi có khách đặt hàng thì đan
đan áo len, nghề đan tay tự học lúc nhỏ, cũng gọi là có chút năng khiếu. Năng
khiếu này thừa hưởng từ mẹ của BH, nhưng lại tự học chứ mẹ không dạy vì ba mẹ
đi làm ăn xa, BH ở nhà chủ yếu với ông bà nội.
Có lần đan giùm cho thầy hiệu trưởng
ở một trường phía bắc thành phố, mình biếu thầy, không lấy tiền công. (nhưng bà
xã thầy vẫn tìm cách và đợi tết thì mang mứt bánh tặng mình ý là cảm ơn).Thầy
hiệu trưởng (trường mình dạy năm 1986-1990) rất tốt, thầy đã tạo điều kiện cho
mình như khi con ốm, chế độ thai sản, nghỉ sinh con, nâng lương theo ngạch quy
định...
Từ năm 1991 mình chuyển vào trường
khác thuộc trung tâm Thành Nội, thầy cũng tạo điều kiện để mình bàn giao công
việc và thuyên chuyển dễ dàng. Thầy rất tin tưởng khi giao cho mình thao giảng
giờ văn. Lúc đã cầm quyết định chuyển trường trong tay rồi, tuần sau sẽ trình
diện trường mới mà thầy cũng bảo: Cô BH hãy dạy thêm tiết thao giảng tập làm
văn rồi đi nhé! Mình rất kính trọng thầy, quý sự tin cậy của thầy nên mình
không ngần ngại với yêu cầu này của thầy, sau một đêm chuẩn bị bài giảng, sáng
mai, ra dạy cho các anh chị đồng nghiệp dự giờ. Tất nhiên khi nhận xét cũng có
người khen, kẻ chê. Ý kiến khen nhiều hơn, chốt lại vẫn là kết luận của hiệu
trưởng, rất hài lòng vì văn cũng là chuyên môn của thầy hiệu nên thầy nắm rất
chắc, với những ý kiến lập luận vững và thuyết phục!
Ra đường nhìn ai mặc áo len đan kiểu
gì đẹp, họa tiết gì bắt mắt, áo trẻ em có hình con vật gì ngộ nghĩnh, về nhà BH
tự đánh ca rô vào giấy tính toán và đan được y chang không khác mẫu mới nhìn
thoáng qua, và còn sáng tạo thêm những họa tiết khác. Khi vào dạy qua hai
trường trung tâm trong thành phố, môn nữ công gia chánh không phải bộ môn của
mình nhưng khi đưa học trò đi thi thành phố thì cả 2 vị hiệu trưởng đều muốn
mình bồi dưỡng ngoài giờ và đem các em đi thi khéo tay, đan lát thêu thùa ở cấp
thành phố. Có nhiều đợt các em đạt giải nhì cấp thành phố với các môn như thêu,
đan, có lần làm món ếch xào sả cũng giải nhì… (Qui định hồi đó, GV nào có HS
đạt cấp TP thì GV sẽ được xét thi đua cấp TP nhưng khi xét thi đua thì họ quên
mất tên mình). Sau này, nghề đan máy đạt năng suất hơn nên BH đi học nghề đan
máy với học phí một chỉ vàng, mua thêm cái máy đan len 3, 2 chỉ, đóng bàn đan
và một số dụng cụ nữa, tổng cộng hết khoảng 5 chỉ vàng cho “sự nghiệp đan len
máy”. Hồi đó để có một chỉ vàng là không hề dễ, có khi phải chơi hụi cả năm
trời mới hốt làm vỏn vẹn 1 chỉ vàng thôi. Đan máy áo len cho thị trường đủ các
kích cỡ: người lớn có, trẻ em có. Về nhà, mình có truyền nghề đan máy cho ông
xã, nên khi mình bận chăm con, chợ búa nấu nướng thì ông xã kéo máy đan giùm.
Ông đan năng suất còn hơn cả BH nữa. Trong nhà ngoài giờ dạy, đến khi đêm về,
tiếng kéo máy đan còn nghe rèn rẹt đến 10-11 h mới đi ngủ. Dạy ở trường về và
cập nhật các loại sổ sách, giáo án chiếm thời gian không ít, tranh thủ làm thêm
nên các con phải tự học là chính. Nếu có giảng bài cho con thì vừa làm, vừa
giảng giải. Có khi đề tập làm văn thì mẹ vừa nấu ăn, vừa gợi ý. thỉnh thoảng
gặp bài toán khó mới nhờ ba gợi ý dẫn dắt. Thương các con tự học là chủ yếu.
May mắn là các con biết ba mẹ vất vả nên biết bảo ban nhau học tập và không đòi
hỏi gì ngoài khả năng của ba mẹ. Vậy chứ bắt đầu lên cấp hai (từ giai đoạn 1997
trở đi) thì mỗi đứa đều đi học thêm từ 4- 6 môn. (Con trai đầu học thêm 6 môn.
Riêng môn vẽ học thêm 3 thầy khác nhau để thi vào trường con chọn là kiến trúc.
Con trai út có anh trai đi trước dò đường rồi nên chỉ học thêm 4 môn cần thiết,
còn môn vẽ chỉ học một thầy, thầy nào mà anh Hai đã học và chốt lại cho em.
Cuối cũng cả hai anh em (cách nhau ba năm) đều cùng thi vào một trường, ra
trường làm cùng một nghề.
Như vậy nếu vận dụng câu nói của dân
gian gian “Trời sinh voi, sinh cỏ” có phần đúng và cũng có phần chưa đúng, chỉ
là câu nói gieo niềm lạc quan mà sống chứ thực sự mọi cá nhân đều phải nổ lực
để vượt qua. Trải qua thăng trầm dâu bể cuộc đời với không ít gian nan như vậy,
thế rồi gia đình của BH cũng vượt qua giai đoạn khó khăn chung của đất nước,
hậu chiến và thời bao cấp.
Nay các con đã đi làm và tự lo được
cho mình.
Có lẽ ai trong cuộc đời cũng phải đi
qua phù trầm dâu bể với bộn bề cuộc sống không nhiều thì ít, nhất là trong giai
đoạn khó khăn chung của đất nước. Hôm nay hồi ức ùa về, nhìn lại một chặng
đường đã qua không ít gian nan, ngẫm lại cũng thầm tự phục mình ừ cũng kiên
cường đấy nhỉ! Không tệ phải không?
Bây giờ chỉ mong mọi người sức khỏe
và bình yên!
Sài gòn, ngày 8/12/2023
Hoàng Thị Bích Hà
© Tác giả giữ bản quyền. Vui lòng ghi rõ nguồn Bông Tràm khi sử dụng lại nội dung này.
|
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét