Hồ Thanh Điền. Sinh ngày 6 tháng 3 năm
1953. Quê quán: xã Đa Phước, huyện An Phú, tỉnh An Giang. Hội viên Hội nhà văn
Việt Nam. Đã in 6 tập thơ và 1 tập ký (từ 1985 đến nay). Giải thưởng Tạp chí
KTNN năm 1993, 2 lần giải cuộc thi thơ ĐBSCL và nhiều giải thưởng khác
BỒNG BÊNH TÍM, tuyển thơ 60 bài, do NXB
Hội Nhà văn ấn hành tháng 6 năm 2012, chừng như Hồ Thanh Điền muốn “tổng kết” chặng
đường thơ?
Chưa phải tổng kết, song là dịp để ghi dấu
những tháng năm “kết tóc se tơ” cùng với nàng Thơ. 60 bài thơ như những ý nghĩ
góp nhặt trong một hành trình thơ suốt dọc đường sông nước : “Mùa mưa lênh lang
nước dâng/ Chỉ nóc nhà lá nâu và cây xanh rải rác/ Giữa mênh mông trắng nước/
Cây lúa Thần Nông không mọc ở kênh Thần Nông được/…Chỉ mười năm sao tưởng lâu
vời vợi/ Một con đường và một dòng kinh” (Kinh Thần Nông).
Hồ Thanh Điền, một trong những cây viết
thơ sung sức của ĐBSCL, từng làm Phó chủ tịch Hội VHNT tỉnh An Giang, có phải
thơ anh tiêu biểu cho vùng đồng bằng trù phú.
“Hàng cột tre cắm cọc bờ sông/ Con
nước chảy qua chóng mặt/ Gió tây u u/ Tấm lá nhà phơ phất”. Hình ảnh miền sông
nước khi “Gió tây mùa lụt” vẫn còn nghèo lắm. Lũ và lụt, dấu ấn trong thơ Hồ
Thanh Điền cho dù có lúc: “Ta vịn bóng đời đi suốt/ Rơi hết tuổi thơ trên đường
xa/ Thời gian, thời gian sót nhánh tre già…” (Về quê). Vì vậy mà “Nếu một mai
không còn mùa lụt nữa/ Em không còn xuôi ngược gió giông/ Ta có khỏi loanh quanh
hoài con chữ/ Nỗi nhọc nhằn có bỏ được em không?” (Ba mùa lụt lớn).
Miền Tây, ĐBSCL trong thơ Điền, dường như
chỉ thấy buồn trong mang mang sông nước, trong khói sóng, và cả trong sắc tím
lục bình: “Sông nước trong chảy về sông nước đục/ Ngã ba dòng người có đợi
người đâu/ Lục bình lơ ngơ phương nào chưa biết/ Đã đông rồi hoa có tím trong
nhau” (Ghi ở Trà Ban), hay như : “Người đi, người đi…/ chạm dòng sông lênh láng
nước/ lút cánh đồng mênh mang cỏ/ và nắng, và gió, và mưa…/ bỗng dưng gặp cây
lúa trời, bông lúa ma/ mỗi bông chín nhiều lần/ mỗi lần vàng vài hạt…” (Những
người lưu xứ).
Có phải vì vậy không, mà gia phả nhà thơ
ghi: “Ta nhìn ta qua gia phả mả mồ/ Ta hiểu từng dấu tổ tông để lại/ Ta hỏi ta
và mai sau con cháu/ Khi chết rồi ngôi mộ thế nào đây?”
Hàng loạt các địa danh Trà Sư, Trà Ban,
Trà Dên, Bà Bái, Mo So… nơi ghi chiến tích của những nghĩa binh, những bộ đội
giải phóng giữ nước, một thời đã bàng bạc vào thơ với những nỗi niềm trăn trở:
“Bài thơ viết vội thay nhang/ Kính người xương cốt trăm năm vơi đầy/ Chắp hai
tay mở hai tay/ Giật mình ngỡ có khói bay gió lùa” (Ngàn năm Mo So).
Nơi những cánh chim Trà Sư “Cò về, Dơi đi,
Diệc về” giống với thân phận con người, nhà thơ đau đáu “Rừng Trà Sư hoàng hôn/
Chẳng biết đâu chim, đâu cá/ Chẳng biết đâu hoa, đâu lá/ Chỉ toàn trăng và
tiếng chim” (Hoàng hôn Trà Sư).
Dường như Hồ Thanh Điền không nệ hình
thức, câu chữ. Thơ như hơi thở, trái tim cảm xúc. Cho dù anh lên Đồng Văn, về
Hà Nội, đi Tây Ninh hay sang Campuchia, thì vẫn bình dị với những nỗi niềm,
trăn trở của thơ: “Trăng lặn xuống lòng hào chảy thành dòng nước mắt/ Tìm không
thấy bóng người xưa/ Tháp khóc.” (Trăng trên tháp Angkor).
60 bài thơ trong một tuyển tập chưa phải
là nhiều, song vẫn còn đó những bài thơ mà người thơ vì quá yêu, chọn theo cảm
tính? Dễ dãi?
Theo nhà hình thức luận Nga nổi tiếng
Shklovski (1893- 1984), thơ cần “lạ hóa”. Ngôn ngữ cảm xúc “bồng bênh tím” mang
âm hưởng Nam bộ, đơn giản, bình thường nhiều hơn là “lạ hóa” kể cả hình thức
nhằm gây sự chú ý hay cách tân. Thơ Hồ Thanh Điền, trình bày bằng xúc cảm hướng
ngoại thông qua những hình ảnh cụ thể. Có lúc là những suy tư thâm trầm: “Một
cơn gió nhẹ rung/ Tôi lắng nghe rừng thủ thỉ/ Mong sao mọi thứ đều tái sinh/
Chỉ chiến tranh là không thể.” (Rừng Nhum tái sinh), hay như: “Dọc Hà Nội ngàn
năm/ chợt nghe/ Hồ Tây mặc cả/ cùng ta…” (Đi quanh Hồ Tây và nghĩ).
Thơ đọc, nghĩ và hãy cùng thưởng thức.
TRẦN HOÀNG VY (tác giả giữ bản quyền)
________________________________________
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét