Lão
dựng chiếc xe ngay trước cổng nhà bà rồi bước vào:
- Bà Môn có nhà không đấy ạ?
Bà vả sạch bèo trong xô nước,
lau khô tay vào ống quần, nhổm người khó nhọc:
- hằng Môn nhà tôi gửi tiền về hả anh?
- Không. Đây là thư người ta gửi cho bà. Bà ra ký hộ con để
con còn về xem quay xổ số nữa. Gớm, tìm được nhà bà mệt thật đấy. Con hỏi đến
rát cả họng, mãi mới có người biết Nguyễn Thị Mến là bà.
Ở thôn này, cứ khi người đàn bà
có con dâu hay cháu nội, cháu ngoại, là người ta gọi họ bằng tên của người con
cả. Thằng cháu đích tôn của bà đã hết cái thời nước mũi thòng lòng đưa ống tay
quệt ngang từ hồi não nào rồi. Mười mấy năm nay, mấy ai nhớ đến tên gốc tên gác
của bà nữa đâu. May còn mấy bạn già thương mến nhớ ra, nên lá thư trên tay lão
Tôn hôm nay đã đến được tay bà. Đôi tay bà cúm rúm, run run cầm lá thư.
- Không biết ai gửi vậy anh?
- Con không rõ, không thấy đề tên người gửi. Thôi con xin
phép bà, con về.
Mải nghĩ về lá thư trên tay mà bà
quên béng không mời lão Tôn cốc nước vối hẵng về. Rỗng rễnh và mơ hồ. Bà lục
tung cả kho kí ức từ thời trai làng hái hoa dành dành giắt bên vách tơ tình bà.
Tấm bé tới giờ có ai gửi thư cho bà đâu chứ ? Ở tuổi chạng vạng, đùng một
cái lại nhận được một phong thư. Bà soi đi soi lại địa chỉ gửi đến trên lá thư.
Đích thị của bà rồi. Chỉ có điều, chỗ điền tên người gửi chỉ là khoảng trắng với
hai dòng kẻ xanh nhạt. Nét chữ lạ huơ lạ hoắc.
Chợt, bà nhớ tới lão Nại. Bà nghĩ
lão trên thiên đàng chắc râu đã phơ phếch. Mỗi lần lão đi, đều không chào tạm
biệt vợ lấy nửa lời. Sáng ra bà thấy mảnh giấy đặt dưới ấm tích pha chè, bà mới
biết rằng lão đã đi. Lão Nại nắn nót từng con chữ. Chữ lão như chữ đứa trẻ con
lên tám, lên chín bây giờ, bụng chữ o, chữ a cứ bệu ra. Lão viết cho bà vài
dòng, đại khái là « Đồng đội còn vùi trong lớp đất. Tôi phải đi tìm họ. Bà
gắng chờ tôi thêm chút nữa. Tôi đi tôi lại về mà. Tôi sẽ nhớ lắm đấy…! Chào quyết
thắng ». Bà đưa tay gạt nước mắt, sụt sùi rồi lại cười bẽn lẽn như thiếu nữ. Bà
giắt những mẩu giấy dưới gối, đêm nào trăng rạng, nhớ lão, bà lại lấy ra xem.
Bà cũng tinh, cứ đêm trước thấy lão ít nói, và ân cần với bà hơn, biết thể nào
sáng mai lão cũng khoác ba lô lên đường đi tìm mộ liệt sĩ. Có những lần lão đi,
lão chậm rãi ra khỏi tấm chăn đơn. Cảm giác như lão đang nhìn mình ngủ, bà
không mở mắt, trống ngực đập thình thịch như sắp sửa bị người ta bắt quả tang.
Đến khi nghe tiếng bước chân lão rệu rạo dưới nền đất, bà mới kịp nhìn bóng lão
qua tấm ri đô mỏng. Bà buông thõng người như một sự bất lực chẳng thể níu giữ
bước chân lão. Bà trùm kín chăn, cố không bật ra tiếng khóc. « Tôi đi tôi lại về mà ». Bà
khóa chặt lời hứa của lão vào ngăn tủ của lòng mình. Dăm bảy mảnh giấy để lại
thì lão đi. Lần này lão đi thật. Nhận tin lão chết do quả bom địch gài trong hố
chôn tập thể, bà khóc vật vã, tay siết chặt lấy những mảnh giấy lão để lại. Lão
sống với đồng đội, đến khi chết đi cũng cùng nằm trong thớ đất. Bà không được
nhìn thấy mặt lão lần cuối. Lão lên thiên đường, và lời hứa vẫn nằm im trong
ngăn tủ…
Bà bước tới bước lui cái khoảng
sân bé tẹo nhà mình. Hay đợi con dâu về? Biết đâu chị lấy tên bà gửi cho người
khác thì sao? Thằng con trai bà có lần nào gửi tiền hay thư cho bà đâu? Vừa ngó
thấy bóng chị Hiên là bà toan dấm dúi lá thư vào túi áo.
Bữa cơm hôm nay có tôm đồng và
canh cải cá rô đúng món bà thích, vậy mà lòng bà cứ chộn rộn không yên. Mẩu thư
nhỏ gọn lỏn trong túi áo mà đè lòng bà nặng như tảng đá. Cơm chưa xuôi bụng, bà
định đứng dậy vào buồng. Thằng cu Khoai quấy, cứ đòi bà nội ru ngủ. Những lúc
thế này sao thấy con cháu phiền quá. Muốn một chút yên tĩnh cho riêng mình mới
thấy thật hiếm hoi. Dỗ thế nào thằng Khoai cũng không chịu ngủ. Hết đòi bà nằm
võng ru, đến đòi bật đài cho nghe. Một giây cứ dài như thế kỉ.
Cuối cùng bà cũng có được yên
tĩnh, sự yên tĩnh tuyệt đối. Tay chậm rãi bóc thư mà vai run lên bần bật.
« Tuổi đã xế chiều vẫn không thôi mong nhớ em. Trong
tôi có một thứ tình già, không phải già vì tóc đã hai màu chen chúc. Già vì cái
tình đã lớn ngót ba mươi năm. Ừ, mà ba mươi năm nhiều nhặng gì cho cam, người
ta chết rồi, tình yêu còn ở lại. Huống gì sáng ra vẫn ngó thấy mặt trời đỏ ửng.
Em ngủ ngoan nhé. Tôi mơ về em.
Tình già!».
Má bà cứ nóng ran lên như người
thiếu nữ lần đầu nghe câu tỏ tình bẽn lẽn. Bà tự xua đi ý nghĩ điên rồ nhơn nhởn
trong đầu mình. « Nhứt định người ta gửi nhầm rồi. Nhưng trót bóc ra rồi
thì tính sao? Hôm nào chờ lão Tôn vào làng đem trả nó vậy ». Bà cứ cười
như hoa nở trong lòng. Tình già sao
mà lãng mạn, ngọt ngào thế chứ. Ngày mới yêu, lão Nại có khi nào ngòn ngọt với
bà câu nào đâu, trừ mỗi lúc lão sắp sửa lên đường. Và lão cũng chẳng rỏ bên tai
bà những câu ngòn ngọt ấy, chỉ dám viết vào mẩu giấy nhỏ. Đến cả yêu thương còn
vụng về. Bà cười bần bật, gặng cho tiếng cười nhỏ chút kẻo con dâu lại tưởng bà
ngáy giữa đêm thì khổ. Tình già, sao
lại khiến bà yêu đời thế chứ.
Trưa nay nắng gắt, mãi bốn giờ
chiều bà mới ra đồng. Đồng khô nứt nẻ, hoác hơ dưới chân lúa. Nhìn vết nứt,
lòng bà như toác rạn. Rồi mùa này chẳng biết lấy gì cho đầy chum, vại. Bà lội
xuống rãnh nước, cầm chậu tát vào ruộng được một ít. Nước rãnh ít mà mồ hôi đổ
xuống thì nhiều. Bà có mỗi sào ruộng này, bà chăm chút nó như khúc ruột của
mình. Trời đất không thương bà. Thế là bà chửi đổng. Chửi trời sao hành bà khổ
thế này.
Từ đồng về nhà, có một thôi đường mà bà đưa tay
ra sau đấm lưng mấy bận. Bà lẩm bẩm trong miệng câu gì đó không rõ nghĩa. Bà gặp
mấy bạn già đang ngồi quán nước của ông Nguồn dưới tán cây đa đầu làng. Mấy bạn
già đẩy qua đẩy lại mấy lời để chèo kéo bà vào uống chén nước chè xanh rồi hẵng
về. Mặt trời đã xế bóng, như hối thúc bà về cho kịp giờ. Mà cũng lạ, bà có hẹn
với ai ở nhà đâu. Giờ này mấy năm nay bà vẫn lân la chỗ này chỗ nọ, chẳng hiểu
sao lòng bà cứ nóng ran, muốn rảo bước chân về thật mau. Bà Miền liếc con mắt,
giọng nhờn nhợt :
- Hôm nay trông bà Môn cứ tươi như gái mới bén hơi chồng thế
nhỉ.
Mặt bà bỗng trân trân như kẻ bị bắt quả tang. Bà vội
phần trần mà câu chữ cứ đá vào nhau.
- Hờmmm… Ruộng đang nứt nẻ mấy bà không lo đi lấy nước à.
Vừa về tới cổng, thằng cu Khoai lí lắc chạy ra
« Nội ơi nội có thư kìa». Bà lại giật mình, lẽ nào Tình già nhầm địa chỉ tới hai lần. Con dâu đẩy đưa câu nói:
- Dạo này bà có cả người gửi thư cơ đấy. Cu Khoai nhà mình
lại sắp có ông rồi.
- Cha bố cô. Người ta gửi nhầm đấy.
- Thư đến lần hai rồi, mẹ còn giấu.
Bà hừ hữ vài tiếng che lấp đi nỗi
thẹn thùng trước con dâu. Bà lại chờ đến khi con dâu ngáy một hồi mới vào buồng
trong đọc thư.
« Tôi viết thư này khi vừa qua một cơn đau. Nhưng
khi đau, tôi nghĩ về em nhiều hơn. Nỗi đau thể xác không sánh được với nỗi đau
mất mát. Ai rồi cũng có lúc phải quên đi để vui sống. Tôi thương em nhiều.
Tình già ! »
Lại là thư của Tình già. Sự tò mò khiến bà vặn căng óc
để nghĩ. Nghĩ về Tình già, liệu là ai
trong quá khứ ? Có khi nào là trai làng năm xưa thương thầm nhớ trộm bà?
Ngoài lão Nại, bà làm gì còn mối tình nào khác để mà nhớ. Bà miên man nghĩ về Tình già. Lẽ nào Tình già say bà thật? Bà cũng muốn biết về Tình già lắm, nhưng bà không có địa chỉ của Tình già, biết tính sao đây? Tình
già như hiểu được tấc lòng tấc nghĩ của bà vậy. Bà mất lão Nại là một nỗi
đau. Nỗi đau ấy có bao giờ nguôi đâu.
Tình già bị thương ở chân do chiến tranh. Có lẽ nào…lẽ nào là người
đàn ông chống nạng lén nhìn bà trưa đó ở khoảng ao bèo nom sáu thước đầu ngõ? Lão
một đời vợ. Vợ lão chết trẻ trong lần sinh con thứ hai. Ngần ấy năm lão sống nuôi
con, không đi thêm bước nữa. Đích thị đó là Tình
già của bà rồi. Bà ngắm mình qua chiếc gương tròn bằng bàn tay, vết nám gồn
gột trên da mặt, khiến lòng bà bỗng nhiên buồn rười rượi.
Rồi hàng tuần bà lại nhận được một
lá thư của Tình già gửi tới. Tình già kể những mẩu chuyện thường nhật
cho bà nghe. Tình già bị thương ở
chân, nên những ngày gió quái, trở trời, Tình
già nhưng nhức nơi vết đau ấy. Bà thương Tình già, cái khoản xoa bóp, đấm lưng bà dẻo và mát tay lắm. Tình già làm bạn với một con khướu, khi
buồn lại viết thư cho bà. Tình già muốn
gửi thư mỗi ngày, nhưng sợ gửi nhiều bà nhanh chán Tình già hơn. Tình già bảo
sẽ có một ngày gặp bà. Bà nghĩ thầm, có khi là cuộc gặp trên thiên đường hay dưới
âm phủ chăng ? Bà nôn nóng, bà muốn gặp Tình già lắm. Đêm và rạng sáng là lúc bà nhớ Tình già nhất. Giờ mỗi ngày bà sống bằng sự đợi chờ tiếng xe máy
tòng tọc của lão Tôn đi qua ngõ. Sáng bước qua tấm gỗ chắn ngang gian ngoài với
gian buồng là chạm ngay di ảnh của lão đặt ngay ngắn trên bàn thờ. Lão Nại nhìn
bà, cười hiền như đất. Bà lại thấy ân hận. Lão chết thật rồi, nhưng bà vẫn còn
là vợ lão. Người ta chết rồi thì còn tình yêu ở lại. Tình già cũng bảo thế cơ mà.
Hôm nay bà quyết định sẽ qua nhà
thăm Tình già. Đến đầu cổng, chân bà
cứ nhũn ra từng bước. Có khi nào lão chẳng phải Tình già, mình lại vác chữ ê về ? Bà nghĩ thế nên chẳng dám bước
thêm. Bà định quay về thì nghe tiếng khướu hót. Trống ngực bà cứ đập thình thịch.
Khướu hót mà óc bà cứ ong ong tiếng Tình
già gọi bà ngọt lắm. Bước chân cứ thế thoắt theo tiếng vẫy gọi. Tiếng chó sủa
chát làm đứt quãng ý nghĩ đang rập rờn trong trí óc. Bà quay đầu, vội chạy như
tên trộm bị bắt quả tang.
Hai tuần. Ba tuần. Rồi bốn tuần. Tình già bặt tăm. Bà buồn rười rượi. Đêm
nào bà cũng thấy lòng mình trống quạnh. Bà lật giở lại những lá thư của Tình già gửi. Từ ngày có những lá thư ấy,
thì những mẩu giấy của lão Nãi cứ nằm im dưới gối, kí ức của bà về lão cũng
chìm trong giấc ngủ miên trường. Bà lo Tình
già đau nhức ở chân. Bà sợ run rủi của ý nghĩ bữa nọ, bà sẽ phải gặp mặt Tình già ở thiên đường. Đầu óc bà bùng
nhùng đủ thứ ý nghĩ không tài nào dứt ra được. Bà buồn tình, cả ngày cứ dáo mắt
ra đầu ngõ. Bà quẩn quanh ở thêm nhà, hết ngó mặt trời mọc, lại trông mặt trời
lặn. Hết ngày, Tình già vẫn bặt vô âm
tín.
Hôm nay là ngày giỗ của lão Nại,
con dâu bà đã tất bật dậy đồ xôi từ sớm. Lúc chuông điện thoại reo, chị bế thốc
thằng cu Khoai vào nghe máy. Hai mẹ con ríu rít nói chuyện với con trai bà. Bà
chả buồn để ý. Nỗi nhớ Tình già cứ xoắn
xít lấy tâm trí khiến bà chả thiết nghĩ về điều gì nữa.
Bữa cơm trưa nay bà ăn cũng chẳng
thấy ngon. Cô con dâu đùa cợt :
- Cu Khoai sắp có ông rồi nhé. Cu Khoai thích có ông không?
Bà gườm gườm con dâu.
- Ông ở kia rồi mà mẹ ?
Cu Khoai chỉ tay lên bàn thờ. Bà
đưa mắt theo. Nén nhang cháy còn chưa hết. Đốm lửa còn lập lòe hình vòng cung.
Ánh mắt lão Nại vẫn nhìn bà hiền như đất.
Trưa đó, bà dùng hết can đảm tìm
đến Tình già. Cánh cổng nhà đóng chặt.
Thằng bé loắt choắt chừng chín mười tuổi ngồi nghịch cát ngay đầu cổng.
- Bà tìm ông cháu ạ?
- Ừ, ông cháu có nhà không ?
- Ông cháu đau chân, nằm ở trạm xá mấy hôm rồi ạ.
Hóa ra Tình già còn có cháu. Tình già đau chân, đi
sao lên tận bưu điện mà gửi thư được ? Không lẽ…
- Cháu đã lên bưu điện gửi thư lần nào chưa?
- Dạ, dạo trước cháu đi suốt. Cháu còn viết thư hộ ông nữa.
Bà thở phào, cười hỏn hẻn, móc trong túi áo mấy
cái kẹo dồi:
- Này, bà cho.
- Cháu xin !
Bà về nhà, khăn áo chỉn chu, tươm tất, xách theo nải
chuối lên trạm xá thăm Tình già. Thấy
bà, Tình già vội nhổm người dậy, miếng
ấm ớ, thẹn thùng. Sự ngượng ngùng của bà bỗng bay đi đâu mất.
- Quỷ sứ, đau ốm mà không báo tôi một tiếng.
- Bà…bà biết rồi à?
- Mấy tuần qua làm tôi chờ mãi, nóng hết cả ruột.
- Bà chờ ai?
- Chờ…chờ thằng Tôn.
Tình
già bẽn lẽn, đỏ mặt. Tình già ngoan ngoãn như đứa trẻ để bà
xoa bóp chân.
DƯƠNG HẰNG (tác giả giữ bản quyền)
__________________________________
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét