Hưng lửng thửng đi chầm chậm trên con đường đất, lần về quê này anh có
nhiều thời gian nên cũng chẳng vội. Buổi
sáng sớm nông thôn êm ả, trời trong xanh, nắng tươi lấp loáng chiếu rọi khắp cánh
đồng mướt mát, rập rờn ngọn lúa hè thu lăn tăn theo gió. Thấp thoáng những bóng
người lui cui đắp bờ, làm cỏ, tiếng í ới gọi nhau… gợi không khí thanh bình,
hồn hậu.
Ngang qua gò lức, bụ bẫm những thân mì vươn cao ba nhánh, những giồng
lang trải đều tăm tắp. Đặt túi đồ, ngồi xuống vệ cỏ, Hưng thoáng bùi ngùi nhớ
Nghĩa, người anh em cô cậu đã hy sinh trong chiến tranh. Quá khứ đã qua mấy
chục năm rồi, cuộc sống bộn bề tưởng chừng như quên bẵng. Nhưng không, bất chợt
lại nhớ, nhớ để tự hào về cuộc sống bình yên hôm nay đã đánh đổi bằng biết bao
gian lao, xương máu của nhiều người, nhiều làng mạc, nhiều thế hệ…
Nghĩa lớn hơn Hưng chỉ vài ba tuổi, nhưng cứng cỏi, giỏi chịu đựng. Ngày
má Nghĩa đang dặm lúa thì bị bom Napalm máy bay thả, phỏng nặng, đau đớn và
chết sau đó một ngày. Đưa tang má xong, Nghĩa chiều chiếu ra cây rơm ngồi khóc
lặng lẽ, ai thấy cũng thương. Tháng sau, Nghĩa xin cha vào đội du kích xã. Ông
trầm ngâm một lúc rồi gật đầu biểu con lại bàn thờ má nó thắp ba cây nhang. Ba
Nghĩa nhìn con, trầm giọng:
- Ba sức yếu nên làm được chuyện nhỏ thôi… Còn con, ba đồng ý cho theo
các bác, các chú đấu tranh, đánh giặc. Nhưng nhớ điều này, theo phải tới cùng,
có chết cũng đừng làm ba mày, má mày cùng bà con xấu mặt!
Có anh trong xã đội nói vui: “Cây súng “mút” có khi còn cao hơn thằng
Nghĩa!”, nhưng rồi cũng bằng lòng cho gia nhập. Hồi đó, xã Bình Công rào làng
chiến đấu, đào hầm hào, bẫy chông, gài đạp lôi cùng khắp để ngăn giặc càn và
thật sự chống chỏi được cả thời gian dài. Mấy năm sau chúng đánh mạnh, có cả
pháo yểm trợ bắn ngày đêm. Tiểu đoàn 206, 514 chia ra cơ động, phối hợp cùng
dân quân, du kích để bảo vệ vùng giải phóng khắp nơi, kể cả xã này, ráo riết vẫn
không xuể. Trong trận địch hành quân tổng lực, Nghĩa quyết cố thủ ở gò lức này
và anh đã hy sinh trong tư thế người lính. Bọn biệt kích kéo xác Nghĩa ra ngã
ba Bình Công và tàn bạo bêu đầu anh trên cây sào tre. Tới chiều, ba Nghĩa tay
mác, tay giỏ đệm ra lấy đầu con về trước sự hoang mang, sững sờ của mấy tên
lính gác. Không rơi giọt nước mắt, ông vuốt ve mớ tóc bết bùn đất, hôn nhẹ lên
khuôn mặt lạnh lẽo của con rồi nhờ người hàng xóm đánh chiếc xe bò kéo đưa về
vườn nhà chôn cất. Sau giải phóng, Nghĩa được làm cái lễ cải táng về nằm chung
với những đồng đội hy sinh trong nghĩa trang huyện…
Nhìn lại gò lức, Hưng thầm nhủ: “Nghĩa ơi! sự hy sinh của anh vô cùng ý
nghĩa, không ai quên được đâu!”. Tiếp tục đi qua một xóm nhà đông đúc, qua con
rạch nhỏ Hưng đã thấy lùm cây xanh khá rậm rạp. Đây là nơi anh chủ ý tìm đến
trong lần về quê này, làm sao xác định ngôi mộ của ông cố anh để thuê thợ sửa
sang thật khang trang giống như nơi yên nghỉ của những người ruột thịt mà anh
đã thực hiện xong. Qua bóng mát hàng cây đến bãi đất rộng có nhiều ngôi mộ đất,
vài tấm bia xiêu nghiêng, cỏ mọc tràn lan. Một ngôi mộ to như gò đất, kế bên là
một mộ nhỏ hơn, khói nhang ai đó thắp nghi ngút. Hưng chào hỏi những người lớn
tuổi ngồi quanh, góc kia có hai thanh niên đang lau mồ hôi, rót nước trà uống
từ cái bình thiếc lớn. Anh mở lời:
- Con xin lỗi bà con vì lâu lắm mới về lại thăm mồ mả ông bà… Ba má con
mất, theo ý nguyện là hỏa táng gởi chùa, con đã làm theo lời. Mộ ông bà nội,
ngoại thì con cũng sửa sang xong. Tổ tiên, ông bà xa xưa thì con không biết,
chỉ nhớ mang máng lúc nhỏ dịp tảo mộ cuối năm có vài lần theo ba ra đây làm cỏ,
đắp mộ, cái nào không người thăm viếng ba cũng đốt nhang đàng hoàng. nghe nói là
mả ông cố. Có phải đây là mả ông cố con không ông Bảy, bác Hai, cô Năm, chú
Chín?
Thấy Hưng chỉ tay về cái mả đất lớn, ông Bảy nhè nhẹ lắc đầu, trầm
giọng:
- Không trách! Lúc giặc giã thì bây còn nhỏ, người lớn hổng nói, hổng
nhắc chừng chừng thì làm sao biết được… Giờ còn có lòng hỏi han, tìm về nguồn
cội, bà con làng xóm mừng lắm. Có hẹn đủ mặt cô bác đây, tui nói rõ rằng đây
mới đúng là mả ông cố thằng Hưng!
Vỗ nhẹ bàn tay xương xẩu lên mả đất nhỏ kề bên, giọng ông run run xúc
động:
- Thời Tây rồi thời Mỹ, bom đạn cùng trời, có khi chết đâu chôn đó riết
rồi xiêu mồ lạc mả cũng có, mà lộn lạo cũng nhiều, người biết người không. Tui
thì nghĩ hơi khác, ai ai ở đây đều là người mình, có nhầm lẫn chi đó mà vẫy cỏ,
đốt nhang cho vong linh ấm cúng cũng là chuyện tốt, chuyện đáng khen…
Những lời của ông Bảy ban đầu khiến Hưng có chút hụt hẩng, nhưng rồi anh
cảm thấy nhẹ lòng khi nhớ những lần theo cha phụ móc đất ruộng đắp những ngôi
mộ sạt lở, bất kỳ ngôi nào quanh đây. Soạn túi đồ lấy ra hoa quả, bánh trà,
thành kính đặt trước hai ngôi mộ, Hưng thắp nhang khấn vái và đi một vòng cắm
nhang hơn mười cái mộ chung quanh. Anh bùi ngùi, chăm chú đọc những dòng chữ mờ
nhạt trên vài tấm bia, nhiều cái không ghi tên, sinh quán người mất mà chỉ ghi
tháng, năm chôn cất thôi. Ông Bảy vẻ vừa ý, nhịp cây gậy chống, hắng giọng:
- Cha tui nhắc kể gốc gác nhiều lần lắm, mả ông cố thằng Hưng là cái
nhỏ. Còn cái mả lớn như gò đất này, mấy cô chú có ai biết rành hông?
Đang quấn điếu thuốc rê, chú Chín ngước lên:
- Tui nghe đâu như của ai đó hồi xưa bị Tây ruồng bố bắn chết…
Cô Năm nói thêm:
- In như ở đây chôn chung tới hai hay ba người lận!
Chặt tỉa xong mấy nhánh cây gie ra cản lối, hai thanh niên lại ngồi gần
nghe chuyện. Hớp ngụm nước trà, ông Bảy thở dài:
- Chuyện giặc giã thì tui nhứt định không quên, có điều mỗi lần nhắc lại
thì trong bụng lại xót xa… Hồi năm 1946 tàu Tây đổ bộ ở Cầu Nổi bị ta đánh
quyết liệt, trận địa từ Bình Thạnh Đông kéo dài tới Xã Lới, Sơn Quy... Rồi tụi
nó còn phải giằng co điêu đứng dữ lắm, quân lực hùng hậu vậy mà mấy ngày sau
mới tạm chiếm Gò Công. Còn phía Mỹ Tho, Tây
kéo quân thẳng hướng Chợ Giồng, Đồng Sơn gian nan chi xứ, tới ngã ba
Bình Công mình đây còn bị chặn đánh một trận tơi bời. Cũng là điều làm bà con
đất địa mình hãnh diện một chút chớ bộ! Nhưng mà…
Ngó ra dãy mả xa xa, ông thấp giọng:
- Nhưng mà sau đó giặc nó trả thù dân mình hèn hạ lắm, cả đàn bà con trẻ
cũng không tha… Ở Giồng Cát chúng đốt nhà, giết chóc gần ba chục người vì tội
rượt đánh một thằng lính vô cướp của. Ở Gia Thuận, nó bắn những người đang làm
ruộng, máu đọng vũng, còn xác thì nằm la liệt… Dân tình bỏ trốn rất lâu mới dám
quay về, thử hỏi người có lòng nhân nghĩa, gan dạ lén lút chôn cất vùi dập như
vậy thì làm sao biết ai là ai? Có khi chôn rồi còn không làm núm, nói gì tới
tấm bia ghi họ tên! Thôi, giờ nhờ chú Hai kể về gốc tích cái mả lớn này cho bà
con đây tường tận hơn…
Nhang đầu mả đã tàn, Hưng lấy dĩa bánh lại mời mọi người bằng cử chỉ
chân tình. Nắng lên cao, chiếu qua cành lá loang lổ mặt cỏ xanh. Câu chuyện ông
Bảy kể như có động lực khiến ai nấy cảm thấy gần nhau hơn. Bác Hai đằng hắng
lên tiếng:
- Tui dọ hỏi cô bác từ lâu rồi nên rành sự thật… Năm 1948 tụi làng lính
a tòng với hội đồng Quắn kéo vô đây o ép dân nộp tô tức đất điền. Đất ông bà
khai phá, có ai chịu ức lòng như vậy, nên đồng tình chống lại. Tụi nó chia ra
từng nhà phá bồ, xúc lúa, tính bắt vác ra Gò Gừa đem xuống ghe. Cãi cọ rồi xung
đột, bà con đập gãy giò một thằng lính, quăng cây súng xuống rạch. Bị phản ứng
mạnh, chúng rút về hết. Qua hai ngày sau lại kéo vô, lần này có thêm mấy thằng
Tây. Tụi nó đốt cháy dãy nhà dân xóm trên, vô tới đây bắt ba người đàn ông, tui
chỉ biết là dân ngụ cư người miền ngoài. Tra hỏi một lúc, chúng lôi ra giữa
ruộng bắn chết, thiệt là bọn dã man…
Không gian như lắng đọng cảm xúc, cả sáu người ngồi bó gối ngó mông
lung. Đứng lên lại gần mả lớn thắp ba cây nhang, bác Hai nói tiếp:
- Vuông gò này hồi ấy bỏ hoang, dân xúm nhau dọn cho trống rồi đào huyệt
chôn ba người bất hạnh. Không rành nguyên quán và thấy họ thân thiết nhau nên
bà con quyết định chôn chung một nơi cho trọn tình nghĩa. Hàng năm, tới tảo mộ
thì dù không quen không biết, nhưng mỗi người đắp vài cục đất riết rồi thành
cái mả cao vọi bây giờ…
Nhìn Hưng đang trầm tư suy nghĩ, cô Năm đắn đo hỏi:
- Chuyện đã rõ rồi, lần này cháu về tìm mả ông cố rồi có định… làm gì
nữa không?
Sửa lại thế ngồi, Hưng nói ngay dự tính của mình:
- Dạ… trước tiên cháu rất cảm ơn ông Bảy với cô bác đây đã giúp cháu
hiểu ngọn nguồn mồ mả ông bà. Nay ý cháu muốn xây gạch tôn cao, làm vòng rào
cửa sắt cho phần mộ ông cố được rỡ ràng. Bờ đất vô đây, cháu xin phép được
tráng xi măng cho sạch sẽ, thuận tiện hơn… Giờ đã gần cuối năm, tranh thủ làm
cho kịp Tết. Nói vậy thôi chứ bà con có ý kiến gì hay thì cháu xin nghe!
Hai thanh niên xong việc về trước, còn lại bốn người im lặng theo đuổi
dòng suy nghĩ riêng. Đốt điếu thuốc, nhìn lên ngọn khói lãng đãng trên vòm cây,
người ít nói nhất là chú Chín vuốt vuốt mái tóc hoa râm, trầm ngâm:
- Tháng trước tôi được dịp cùng anh em cựu chiến binh đi tham quan miền
ngoài. Ấn tượng nhiều với tôi là lần ghé núi Nhạn ở thành phố Tuy Hòa, viếng thăm
nhà bia tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ hy sinh trong hai cuộc kháng chiến
chống Pháp, chống Mỹ và bảo vệ Tổ quốc. Hình dung được không? trên ngọn núi cao
là một nhà bia, trang trọng ghi danh gần mười ba ngàn liệt sĩ trên những phiến
đá tạc nhẵn… Gần mười ba ngàn liệt sĩ! Tôi
xem không hết, chỉ biết quê quán các liệt sĩ ấy hầu như ở khắp mọi miền đất
nước, có cả người Tiền Giang mình…
Ánh mắt chú Chín buồn buồn, xa xăm:
- Có anh, chị trong đoàn cứ đứng thừ người, tay xoa nhẹ lên bia ghi danh
mà nước mắt rưng rưng… Nghe thuyết minh xong, tôi ra ngoài nhìn lên ngọn núi
Chóp Chài trải dài bạt ngàn màu xanh cây rừng mà lòng cảm kích vô hạn. Biết bao
chiến sĩ trong binh đoàn vượt rừng, băng núi, chiến đấu kiên cường, phất cao
ngọn cờ Tổ quốc cho đến ngày toàn thắng… Tôi lẩn thẩn nghĩ rằng những đêm trú
quân trong bóng tối núi rừng, chắc có rất nhiều người nhìn về hướng sáng đèn
thành phố để mơ ngày chiến thắng, nhẹ bổng bước chân về lại gia đình. Cuộc
chiến đạn bom tàn khốc, bao nhiêu chiến sĩ vĩnh viễn nằm lại khe suối, góc
rừng? Những nấm mộ không có hình hài, chỉ còn di vật mà thôi! Thành ra tôi cho
rằng vong linh các liệt sĩ ấy cũng thỏa nguyện vì đã cống hiến tuổi thanh xuân
cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, không có gì phải nuối tiếc. Bởi vì…
Bác Hai nhìn qua mọi người, tiếp lời:
- Bởi vì những liệt sĩ đó vẫn nằm trong lòng đất mẹ thiêng liêng, vẫn
được sự tưởng nhớ, ghi công trong lòng mỗi một người chúng ta, đúng không bà
con? Tôi lại nhớ bà Tư ở Bình Hưng, hai con hy sinh từ năm 1968 mà tới giờ chưa
tìm được hài cốt, đêm đêm bà để cửa liếp khép hờ và thao thức chờ con đột ngột về
thăm như những ngày xưa… Ôi, ngày xưa… hơn bốn chục năm rồi!
Tiếng những con chim sâu tíu tít trong không gian êm ắng, trầm mặc gợi
chút nỗi niềm bâng khuâng xa vắng. Những tàn nhang trước mộ cong oằn lay lay
trong gió nhẹ. Hưng chợt ngẩng đầu, giọng rành mạch tự tin:
- Thưa ông Bảy, bác Hai, cô Năm, chú Chín! Lần về tìm mả ông cố, cháu
may mắn được gặp và thấm thía những lời bà con làng xóm mình dạy về tình yêu quê
hương, đất nước… Mới hiểu rằng nếu cuộc sống xứng đáng, không phí hoài thì khi
mất đi, có nằm đâu cũng là đất mẹ, cũng trong lòng đất mẹ, trong lòng mọi
người… Cháu sẽ không xây lại mộ ông cố mà chỉnh trang lại tất cả mồ mả nơi này.
Dù vẫn là mả đất, nhưng cháu muốn trồng thêm nhiều bông hoa, loại bông hoa mộc
mạc thân quen của quê mình, cháu xin được gọi là hoa của đất. Đường vào thì
cháu sẽ lót dal cho sạch, ý bà con ra sao?
Cả ba người lớn tuổi không hẹn mà cùng đưa cao tay, gật đầu đồng tình. Khoảng
cách dè dặt được xóa đi qua tiếng cười, cái vỗ vai thân mật với Hưng. Sự ngọt
ngào, chân chất của tình người, tình đất làm xao động tâm hồn Hưng, anh cảm
nhận rất cụ thể, chân thành. Thắp thêm tuần nhang cho các ngôi mộ, Hưng cầm tay
ông Bảy áp vào ngực:
- Đã trưa rồi, cháu xin được mời cô bác tới nhà dì Út cháu dùng bữa cơm,
gọi là tình làng nghĩa xóm… Dù bận việc ở thành phố đến mấy, cháu xin hứa sẽ
hoàn thành việc chỉnh trang khu mộ này rồi mới đi!
Ông Bảy chống gậy dẫn đầu, mọi người thong thả bước theo. Hưng đi sau
cùng, anh ngó ngoái lại vòm cây, nơi ông cố anh cùng những người trải qua thời
chiến tranh ác liệt, tất cả đều thanh thản yên nghĩ trong lòng đất mẹ!
NGUYỄN KIM
_______________
Cảm ơn tác giả cho tôi đọc được truyện ngắn rất xúc động, "Trong lòng đất Mẹ" nghe tựa cũng đủ buồn
Trả lờiXóa