Ông Chung đã
quá tuổi tám mươi nhưng vóc dáng trông còn khỏe lắm. Tóc hơi dài và
chòm râu bạc trắng trông rất nghệ sĩ. Chất nghệ sĩ của ông có lẽ
bắt đầu từ những năm tháng sống trên đảo Paracel với tư cách là một
người lính. Những buổi sớm mai ngắm mặt trời lên trên biển, đảo rực
nắng nhấp nhô con sóng pha lê biến ông thành thi sĩ tự lúc nào! Lòng
cứ trào dâng những cảm xúc không diễn tả được. Có lẽ nhiều nhất là
nỗi nhớ. Nhớ và nhớ!
Nhớ mặt trời lên trên những nóc nhà cổ kính
rêu phong hay những vỉa hè đầy ắp màu hồng của từng tia nắng mới?
Nhớ quê và nhớ mẹ? Ông hít đầy
lồng ngực hương gió biển nhuộm hồng để thắp sáng ước mơ hoài vọng,
ngửa mặt nhìn những đám mây đang xếp hình rồi tưởng tượng ra Thánh
Gióng, Lê Lợi, Quang Trung, từng đoàn người tay súng tay gươm cùng nhau
đi giữ nước. Những buổi chiều êm ả, đảo thân yêu đón ngàn tia nắng
mềm rơi trên cỏ dại vắt lưng bãi đá, gió từ đâu thổi vi vu khúc tình
quê lâng lâng lai láng. Nhìn ra khơi xa, cánh buồm thô đi dựng bờ mở
cõi của cha ông còn lấp loáng trong ráng chiều tươi đỏ và dấu chân
khai phá của mẹ như cột mốc quê hương còn in trên từng vệt nắng cuối
ngày. Nhiều lúc ông tiếc nuối mình đến với đảo muộn màng quá dẫu
khi ấy ông mới chừng hơn hai mươi tuổi. Nhanh thật, mới đó mà bao nhiêu
thay đổi, đổi thay. Ngước nhìn lên chiếc tủ kính trong phòng khách,
con ốc biển vẫn còn đó, một kỷ vật hay một minh chứng về một thời
trai trẻ? Ông không bao giờ quên được
ánh mắt rạng ngời của mẹ khi cầm con ốc biển trên tay, món quà của
đứa con trai thời chinh chiến nhân những ngày phép ngắn ngủi về thăm
mẹ. Trong ánh mắt của mẹ là sự đồng cảm, là tình yêu thương và
nhất là niềm tự hào. Ông làm sao biết được mẹ đã kể cho bao nhiêu
người nghe chuyện về ông, về biển đảo với sự hãnh diện sự kỳ vọng
và cả những âu lo. Ông làm sao biết được khi còn ở đảo, mẹ ông xem
con ốc biển chính là ông, bà đã trò chuyện với nó đêm đêm để khuây
đi nỗi
nhớ thương con. Khi mẹ mất,
ông vẫn còn là lính đảo, con ốc biển trở thành hình ảnh của mẹ
mỗi khi ông được về phép. Và rồi con ốc nhặt được trên đảo Paracel
thời trai trẻ ấy vẫn sống cùng ông cho đến tận bây giờ. Ông lại lẩm
bẩm: nhanh thật. Thằng Dân,
con trai ông, đã là ông nội.
Ông đã có chắt, năm sau nữa nó sẽ vào lớp một. Ông mở tủ kính lấy
vỏ ốc biển đặt xuống bàn rồi cẩn thận lau chùi.
-Bố ơi! Sáng
nay bố có đọc báo không?
Dân
đi phố về thấy bố rảnh rỗi nên gợi chuyện
-Bố đã đọc
nhiều báo lại còn xem ti vi nữa, tình hình biển đông mỗi ngày mỗi
căng thẳng.
Ông thừ
người nghĩ ngợi. Đã sống, đã ăn, đã ngủ, đã dạo chơi trên ngôi nhà
Hoàng Sa thân yêu của ông nhiều năm sao bọn “chui ống đồng” cứ bảo Hoàng Sa là của hắn! Một sự thật
như máu thịt của ông, như sự tồn tại của ông trên cõi đời này lẽ
nào lại nói khác được! Ông lại nhìn ốc biển. Đã nhiều đêm ông nghe
được từ ốc biển tiếng gió ngàn năm âm vọng lời thề: phải giữ lấy
Hoàng Sa Trường Sa một phần đất mẹ. Đã nhiều đêm trong giấc mơ của
ông đàn hải âu kiêu hãnh đo đại
dương mênh mông bằng đôi cánh, những chuyến thuyền câu tôm cá đầy khoang
lộng gió đi về. Đã nhiều đêm ốc kể cho ông nghe những nhà giàn hiên
ngang trụ vững trước bão dông sóng cuộn như thế nào, những giàn khoan
sừng sững niềm tin sức sống tràn trề vươn trời cao bám sâu ruột đất
làm giàu cho Tổ quốc ra sao. Bất chợt những giọt nước mắt trào ra.
Gió bên kia cửa sổ thổi vào, quay mặt đi để Dân không nhìn thấy, ông
không muốn con cháu nhận ra sự yếu mềm của mình. Thực ra Dân không
chỉ nhìn thấy bố khóc mà còn hiểu được những sâu kín trong lòng
bố.
-Bố vào
phòng, con chế trà hai bố con mình vừa uống vừa bàn chuyện!
Chén trà
nhàn nhạt đắng ngắt so với mọi ngày, có lẽ ông đã già quá rồi, vị
giác không còn nhận biết được những nồng thơm dễ chịu. Nghĩ rằng
chẳng sống được bao lâu nữa nên ông đã dành tất cả tình yêu thương cho
con cho cháu, làm tất cả những gì có thể làm được cho chúng. Dân
nhìn bố trầm ngâm đến bơ phờ mà lo lắng. Đối với con cháu ông là
người cha người ông mẫu mực đáng kính, là trụ cột, là niềm kiêu
hãnh của gia đình bốn thế hệ sống rất mực yêu thương nhau. Làng xóm
gọi gia đình ông là một đại gia đình hạnh phúc nhất. Những ngày
biển đông dậy sóng, bà con lối xóm thường đến nghe ông kể chuyện trên
đảo Paracel ngày xưa, nào là cảnh đẹp thơ mộng, nào là sự hùng vĩ
đầy kiêu ngạo. Họ biết ông là nhân chứng sống của một Hoàng Sa đất
Việt. Đề tài hai bố con tâm sự hôm nay cũng không ngoài chuyện bọn
“chui ống đồng” chiếm đảo lấn biển. Ông rất thích gọi bọn xâm lược
là bọn “chui ống đồng”, có lẽ ông tìm được trong cụm từ ấy ý nghĩa
của lịch sử kiêu hùng, tính tất thắng của chân lý, niềm tự
hào của dân tộc, cả lòng vị
tha của người chiến thắng...
Có tiếng
động ở phòng khách, hai bố con ngừng nói chuyện im lặng lắng nghe.
Tiếng bước chân rất khẽ, ông Chung đặt tách trà xuống, đứng dậy. Dân
theo bố ra ngoài. Chẳng có ai cả. Ông Chung nhìn quanh, giật mình phát
hiện ra con ốc biển đặt trên bàn biến đâu mất. Ai đó đã lấy trộm nó
rồi. Mặt ông tái nhợt. Dân biết ông yêu quý con ốc đó đến chừng nào
nên cũng hoảng hốt chạy ra sân nhìn quanh tìm kiếm. Chỉ có con bé
Quỳnh, đứa cháu nội gái, đang chơi với bạn ở góc sân nhà bên cạnh.
Dân chạy vào nhà. Ông Chung đang ngồi trên ghế bành gỗ, mặt đau đáu
dõi về nơi xa xăm nào đó. Ốc biển đã theo ông những trên sáu mươi năm
nay rồi, đâu dễ dàng mất đi như vậy được! Nhưng nó đi đâu? Ai lấy nó?
Để làm gì chứ? Bao nhiêu câu hỏi cứ lởn vởn chập chờn quanh ông như
một tấm màn sương mơ mơ hồ hồ đến bực bội. Rồi chợt nhớ ra điều gì
ông bình tĩnh trở lại:
-Chẳng sợ
mất đâu con. Con ốc này to lạ thường dễ gì ai có được, bố còn ghi
ngày tháng trên vỏ ốc dễ nhận ra thôi, cứ từ từ rồi tính.
Dân nghe bố
nói vậy cũng tạm yên lòng nhưng cũng thầm tự trách mình vô tâm quên
không nhắc bố. Còn bố cũng lẫn thẫn rồi, lau chùi xong vẫn đặt con
ốc ở bàn không cất vào tủ kính như mọi ngày.
-Bố đi dạo
với con một vòng cho thư giãn, để ngày mai con nhờ người hỏi tìm.
-Ừ! Thì đi!
Bé Quỳnh
chạy vào nhà nét mặt rạng rỡ pha chút hóm hỉnh:
-Cố và nội
đi đâu đó, cho cháu đi theo với!
-Nội đi tìm
con ốc cho Cố.
Bé Quỳnh
gặng hỏi:
-Cố yêu con
ốc lắm phải không?
Ông Chung
nhìn đứa chắt kháu khỉnh dễ thương, bực tức tan biến đâu mất:
-Ừ! Cố yêu
nó như yêu bé Quỳnh vậy
-Mất con ốc
Cố có tiếc không?
Ông Chung
ngạc nhiên vô cùng nhưng cũng thư thả trả lời cháu:
-Tiếc lắm
chứ! Nhưng sao hôm nay bé Quỳnh hỏi nhiều vậy!
-Nếu cháu
tìm được con ốc cho Cố, Cố phải hứa với cháu một chuyện...
Dân yên lặng
nhìn hai Cố chắt nói chuyện với nhau trong lòng dậy lên những niềm
vui khó tả
-Chuyện gì Cố
cũng hứa!
-Cố dẫn cháu
đến đảo Hoàng Sa chơi Cố nhé!
Thì ra mỗi
lần kể chuyện về Hoàng Sa với bà con lối xóm, bé Quỳnh nghe lóm
được và tuổi thơ của nó phần nào hiểu ra rằng Hoàng Sa nơi Cố nó
đã sống rất gần gũi, rất thân thương, nơi ấy có thể vui chơi thỏa
thích, có thể nhặt những con ốc biển để tặng bạn bè. Ông Chung chưa
kịp trả lời cháu, bé Quỳnh đã kéo tay ông vào nhà, nó dẫn ông đi
vào phòng ngủ của nó, trên chiếc bàn nhỏ con ốc biển chiếm gần một
nửa. Ông Chung, ông Dân đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Bé
Quỳnh liến thoắng:
-Cháu tìm
được con ốc biển này rồi, Cố phải giữ lời hứa đấy nhé!
-Cố tặng
cháu con ốc biển này nhưng không được làm nó đau. Cố già quá rồi,
nếu không dẫn cháu ra Hoàng Sa chơi, thì còn Nội của cháu, Bố của
cháu, lo gì chứ!
Giọng Ông
Chung run run nhưng âm vang, từng chữ từng lời xoắn vào lòng ốc biển.
Những ngày nổi gió, âm thanh từ lòng ốc biển sẽ ngân vang ngân vang
đến tận mai sau...
NGUYỄN BÁ HÒA
__________________
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét