Không phải là những cánh đồng mênh mang mùa nước nổi, đôi mắt buồn vời vợi của cô gái Chăm bên khung cửa gỗ, hay cảm giác chông chênh thả hồn trôi trên chuyến phà ở đầu nguồn sông Hậu, Châu Giang trong tôi chỉ đơn giản là ly cà phê sóng sánh trong quán cóc liêu xiêu, chỉ như những hoàng hôn loang loáng ngồi nhìn ken dày những ghe lưới kéo vùng biên giới nhưng mà thân, mà nhớ, mà nôn nao để tìm tới. Thật lạ, đi và về không biết bao nhiêu lần nhưng vùng đất ấy, với một vẻ bí ẩn cố hữu ẩn náu trong dáng vẻ yêu kiều của người con gái Chăm cứ bắt người ta phải trở lại, phải kiếm tìm.
Mộc mạc nhà sàn gỗ
Tôi không nhớ mình đã đến những làng Chăm Châu Giang (nằm ở các huyện An Phú, Tân Châu, Phú Tân, Châu Phú, Châu Thành, tỉnh An Giang) bao nhiêu lần, tìm kiếm một điều mơ hồ gì đó ở vùng đất này bao nhiêu lần. Chỉ biết cứ mỗi mùa mưa, khi nghe tin nước nổi đang về, mình lại mê mải muốn trở lại Châu Giang, dải đất nhỏ bé nằm bên dòng sông Hậu cuồn cuộn. Có điều lạ lùng, dù địa danh Châu Giang ngày nay không phải là địa danh của cấp xã, huyện hay tỉnh thành của vùng đất này, cũng như người Chăm chỉ có chiếm một số ít trong những cư dân nơi đây nhưng hễ nhắc tới Châu Giang là nhớ đến người Chăm. Có lẽ, người Chăm chính là chủ nhân đầu tiên của vùng đất cổ mang tên Châu Giang này vậy.
Nhớ cách đây mấy năm, có đận nước về nhiều, dâng cao chừng ba mét, nghe đài với ti vi cứ ra rả suốt ngày mùa lũ năm nay bất thường, rằng có thể do sự biến đổi khí hậu toàn cầu gì đó, và rằng dòng sông mẹ Mekong đang bị đe dọa nghiêm trọng. Lúc ấy, ngồi cùng tôi ngay gần bến phà Châu Giang, sát bên bờ sông Hậu, trong căn nhà sàn gỗ tràm già bóng lẫy màu thời gian, ông Cả, người lớn tuổi, uy tín nhất ở làng Chăm này cười hề hề bảo, chỉ có những ai chưa từng đến Châu Giang, chưa đặt chân tới đầu nguồn sông Tiền, sông Hậu mới gọi mùa nước nổi là nước… lũ. Có thể nói, mặc dù cùng là hiện tượng nước mưa tự nhiên phía thượng nguồn đổ về hạ lưu qua những dòng song nhưng như một đặc ân riêng biệt của thượng đế từ ngàn năm qua, nước ở các dòng song khác có thể là những cơn lũ cuốn đi tất cả, gồm sinh mạng con người và tài sản thì nước ở vùng đồng đất châu thổ này lại hiền hòa, là nguồn sống, là mong mỏi, cứu cánh bao đời qua. Điều này không chỉ của những người Chăm mà là đặc ân của thiên nhiên với hàng triệu cư dân miệt đồng bằng rộng lớn này. Vì thế, người dân mong chờ mùa nước nổi, một trong những mùa mưu sinh chính của người nghèo nơi đây với rất nhiều sản vật đặc trưng. Ngày nay, cuộc sống không còn phụ thuộc vào tự nhiên một cách thuần túy như xưa nhưng đối với người Chăm nói riêng, và cư dân châu thổ nói chung, mùa nước nổi vẫn là mùa được mong chờ, dù có thể ruộng vườn, nhà cửa đều chìm trong mênh mông nước.
Theo những người dân ở Châu Giang, hầu hết các căn nhà sàn gỗ ở đây đều có tuổi đời hàng trăm năm. Thậm chí, nhiều căn nhà sàn có từ thủa sơ khai vùng đất này, cách đây chừng hơn hai, ba trăm năm, khi những cư dân người Chăm đầu tiên lập nghiệp nơi đây dựng lên. Nếu ở những vùng đất khác, điều này có thể khá bình thường vì nhiều ngôi nhà gỗ khác có thể còn có tuổi thọ lâu đời hơn. Tuy nhiên, ở vùng đất mà mỗi năm có tới 4-5 tháng chìm trong nước nổi như Châu Giang thì việc những căn nhà này cứ tồn tại qua những mùa nước lại hết sức đặc biệt. Như ông Cả từng tâm sự, có lẽ vì nguyên liệu làm nhà là gỗ tràm, loài cây mọc trong nước, có thể chìm trong nước cả năm nhưng không mục nên tuổi thọ nhà sàn của người Chăm mới lâu như vậy. Thế nhưng, khi xây dựng phải chọn những cây tràm già có tuổi đời hai ba mươi năm chứ tràm non vài năm tuổi như bây giờ thì gỗ có lẽ cũng không được bền lâu như vậy.
Có điều rất lạ lùng là mặc dù hầu hết những ngôi nhà gỗ đặc trưng của người Chăm đều rất đơn sơ, cấu trúc đơn giản, ít họa tiết trang trí mà hướng tới sự bền bỉ của công trình thì những Thánh đường, một kiến trúc công cộng độc đáo khác của người Chăm lại hoàn toàn ngược lại. Nghĩa là các Thánh đường này luôn được thiết kết cực kỳ hoành tráng, rộng lớn, uy nghiêm và phảng phất những nét văn hóa của người Hồi giáo, tín ngưỡng mà những người Chăm đang thờ phụng. Tôi đã may mắn được qua hầu hết các thánh đường của người Chăm vùng Châu Giang này. Theo đó, trong quần thể làng Chăm ở Châu Giang hiện nay được chia nhỏ ra khoảng hơn mười cụm làng nhỏ khác, có các đặc điểm văn hóa tín ngưỡng và nếp sống giống nhau, nằm rải rác vùng thượng nguồn này. Các thánh đường đó với kiến trúc hình củ tỏi có chóp nhọn cao vút chĩa thẳng lên trời và bên trong là một căn thánh đường rộng mênh mông để tất cả đàn ông người Chăm có thể đến hành lễ mỗi ngày khá giống nhau. Theo những người cao tuổi, trước kia vùng đất Châu Giang này hoang, người Chăm sinh sống ở hai bên bờ sông Hậu gần phà Châu Giang ngày nay. Sau đó, do dân số tăng nhanh, người Chăm mở rộng địa bàn, vẫn men theo bờ sông Hậu và các nhánh sông nhỏ khác, tạo thêm nhiều cụm phum (hay còn gọi là ấp, làng) khác với khoảng cách địa lý chừng vài chục cây số. Sau đó, khi người từ nơi khác tìm tới, những khoảng cách của các phum ấp được lấp đầy, hình thành các cộng đồng khác dân tộc cùng chung sống hòa thuận hàng trăm năm như ngày nay vẫn thấy.
Vùng đất của những khác lạ
Tôi không có nhiều người quen ở Châu Giang nhưng lại có rất nhiều hình ảnh về con người, mảnh đất này, đặc biệt là những đứa trẻ cả trai lẫn gái đều mặc váy, những người già hay cởi trần để râu dài nhưng thích cười luôn đội khăn thêu kiểu ca-rô màu đen trắng trùm ngang lưng, những phụ nữ vạch trần ngực cho con bú còn vẫy tay chào khách cho tới những cô gái Chăm mắt lúc nào cũng thăm thẳm buồn mà miệng thì như đang hát. Những điệu hát vừa xa lạ, vừa thân quen trôi trôi trên dòng sông Hậu ngoài kia. Tôi hay mường tượng rằng, khi người con gái làm đẹp, họ thường cố gắng chăm chút thêm cho mình nhiều hình ảnh, nhiều đồ vật kèm theo nhưng với người con gái Chăm thì ngược lại. Khi làm đẹp, họ cố gắng tạo cho mình những gì đơn giản nhất. Một sự đơn giản thuần khiết mang đậm vẻ bí ẩn sau tấm khăn trùm màu đen huyền bí.
Có lần, cũng mùa mưa, trời đã chiều nhưng tôi vẫn mải miết chạy từ phía làng Chăm ở Châu Phong ngược theo sông Hậu, lên mấy làng Chăm khác ở Quốc Thái, Khánh Hòa, Nhơn Hội sát biên giới hơn, nằm bên rìa hồ Nước Trời rộng lớn chỉ để xem cuộc sống cuối ngày của những cư dân người Chăm mà thôi. Ở đó, khi hoàng hôn đang cố le lói những tia nắng cuối cùng trong ngày cũng là lúc những chàng trai người Chăm vội vã về nhà sau một ngày thả lưới, những phụ nữ Chăm buông khung dệt để nấu những món ăn đậm đà luôn có màu vàng óng nhưng cay xè cho gia đình trong bữa tối. Dường như, cái yên bình và nhẹ nhàng chính là điều làm nên cuộc sống của người Chăm bao năm qua, dù ngày nay, rất nhiều thứ đã thay đổi ở vùng đất này.
Có người nói, nếu muốn tìm hiểu văn hóa, con người của vùng đất nào đó hãy đến khu chợ của họ. Nếu ai từng đến chợ của người Chăm sẽ thấy điều thật đặc biệt đó là hàng hóa không sum tụ, đông đúc nhộn nhịp như chợ của người Kinh mà ta vẫn thấy. Thường, chợ của người Chăm là chợ tạm, dù có thể nó hoạt động ở đó cả trăm năm rồi. Chữ tạm ở đây có nghĩa là chợ có thể di chuyển, từ ngày này qua ngày khác hoặc xa hơn, từ mùa nước qua mùa khô. Vì thế, hầu hết các sạp hàng hóa ở chợ đều chất núc ních trên những chiếc xe gỗ có gắn bánh. Những người buôn bán cứ thể đẩy xe đi. Có thể coi một vài cái xe đó đứng cạnh nhau là một cái chợ bởi từ thịt cá, rau củ quả cho tới vải vóc, quần áo, giầy dép đều được chất lên những chiếc xe như thế. Người bán hàng cứ thế mải miết đẩy xe đi, dọc theo các ấp cư dân người Chăm.
Ở một vùng đất có nhiều văn hóa, nhiều tín ngưỡng, nhiều dân tộc như vùng thượng nguồn Châu Giang này nhưng thật lạ, văn hóa Chăm ít bị mai một nhất. Nghĩa là sau mấy trăm năm, cộng đồng người Chăm, một cộng đồng vừa khép kín, vừa cởi mở với những quy định khắt khe của giới luật luôn giữ được gần như nguyên vẹn những gì cha ông để lại, bất kể cuộc sống gia đình họ có thể giàu lên, hay nghèo đi.
ĐOÀN ĐẠI TRÍ
_________________
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét