Trời
đang nắng gắt, chợt một đám mây khói đèn kéo đến rất nhanh. Bảy Tởn trên đường
về nhà càng lẹ chưn hơn, sợ mắc đám mưa này coi mòi lớn lắm, hổng chừng tới đỏ
đèn mới tạnh. Nhà cửa trống trước trống sau, không có đờn ông lỡ gặp giông to,
đờn bà làm sao ứng phó? Càng nghĩ khiến
anh càng lo, tự trách sao không đi sớm một chút. Lát sau cơn mưa đổ xuống như
xối nước, anh phải tấp đại vào miễu thổ địa gần đó lánh tạm. Cũng còn hên, khúc
đường này vắng, chẳng một cái nhà. Không có ngôi cổ miếu này chắc ăn anh phải
dầm mưa.
Miễu
thấp lè tè, bên trong tối om, vừa bước vào là nghe tiếng con nít khóc khàn
giọng. Quá ngạc nhiên, anh móc gói thuốc rê lấy hột quẹt bật lửa, đảo mắt nhìn
quanh tìm kiếm. Một đứa bé chừng đầy tháng được quấn trong chiếc khăn tắm, lúc
này chỉ còn đủ sức phát
ra tiếng è è
như sắp hụt
hơi. Với phản
ứng
tự nhiên anh quấn
lại khăn rồi
ủ
ấm
cho nó, coi bộ đứa bé
bị lạnh tím
người rồi. Trong lúc làm
chuyện
này,
Bảy
Tởn
nhặt được bức thơ. Qua ánh
sáng chập chờn của hộp quẹt, anh đọc rất khó
khăn:
Không
ai nỡ bứt cái ruột của mình mà quăng. Nhưng tui phải làm thế vì không còn cách
nào hơn. Vậy nếu Trời cao đưa lối để ai gặp đứa nhỏ này, xin hãy nuôi giùm,
công đức ấy to lớn còn hơn cất năm bảy kiểng chùa. Bức thơ này được viết làm
hai bổn với cùng một tuồng chữ. Nếu sau này mẹ con tui có cơ hội gặp nhau, sẽ
trình ra để làm bằng cớ.
Xin
được lạy ba lạy tạ ơn!”
Đến
khi tạnh mưa, dù muốn hay không Bảy Tởn cũng phải bồng đứa nhỏ về nhà. Chị Bảy
ngó thấy thiếu điều muốn xỉu! Xưa nay chồng mình thật thà chất phác, ai dè lại
có con rơi, trời ơi là trời! Anh phải hết sức phân
trần, kể rõ
đầu
đuôi,
rồi trình ra cái
thơ, chị mới
tạm không ỏm
tỏi, chớ tin thì
chưa, phải điều
tra kỹ! Tai bay họa gởi, đang không nổi hứng nghe lời thằng cha Tư Mập rủ qua
nhà nhậu mới sanh cớ sự.
Chị
Bảy đánh đòn cân não:
-
Nếu nó là con ông tui sẽ quăng vô chuồng heo đừng trách nghen!
Bảy
Tởn nghe vợ nói mà thấy ớn da gà. Nhưng tình ngay lý gian, đành xuống nước:
-
Bà dòm kỹ đi, nó có chút nào giống tui đâu.
-
Còn nhỏ làm sao biết được? Thằng Vách mới lên ba, lo chưa đủ nay thêm đứa này
lấy gì nuôi?
Thời
may đứa bé khóc thét, chị lật đật bồng lên xem xét, thấy nó đái ướt, liền lo
thay tã quên gây nữa, thừa dịp anh Bảy lẻn ra vườn. Đờn bà ưa bốp chát chớ
thương con nít lắm!
Chuyện
gì cũng vậy, ban đầu thấy khó lần hồi cũng xong thôi. Từ ngày con bé mởn da mởn
thịt chị Bảy cũng tươi tỉnh hẳn. Rồi khi nó ư e cười toe toét chị vui lây. Ngày
tháng dần trôi, con bé lớn nhanh như trái bí trên giàn, biết lật, biết trườn…
cả nhà cùng thương. Hết anh Bảy rồi tới chị thay nhau bồng ẵm, thay nhau hun
chùn chụt. Ngay cả thằng Vách cũng thích thú với em. Đến chừng tập đứng, tập
đi, anh chị bận bịu suốt ngày, mỗi lần nó té chị thấy mình đau lây, cằn nhằn
anh Bảy sao quá lơ là. Nhà Bảy Tởn từ đó đầy ấp tiếng cười sau những bước đi
chập chững đầu đời của bé.
Chị
Bảy không còn nặng nhẹ chồng việc đem về đứa con ngang xương nữa. Con bé càng
lớn càng xinh đẹp. Chị cố tìm một nét giống, dù mơ hồ, của bé với chồng, nhưng
tuyệt nhiên không thấy. Chừng ấy mới tạm thời tin chồng mình vô tội. Bảy Tởn từ
tên nghi phạm chuyển thành có công cho vợ một bé gái hoàn hảo. Bỗng dưng chị
cảm thấy hạnh phúc như lúc sanh thằng Vách. Ngày
qua tháng lại con bé bắt đầu đi học, chị bỏ công đưa rước, sợ nó còn dại
bị mấy đứa lớn ăn hiếp chớ nhà cách trường cũng không xa. Mỗi khi nó ấm đầu sổ
mũi, chị lo tất bật, mất ăn mất ngủ. Bảy Tởn thương bé không thua gì vợ, nhưng
tánh đờn ông ít biểu lộ ra mặt. Đi đâu về, không gói đậu phộng rang cũng vài
cái bánh quai chèo làm quà. Tối đến nghe nó bập bẹ ráp vần, ba trật bốn vuột,
thấy thương vô cùng!
Còn
nhớ cái chuyện đặt tên cho nó mà phát tức cười. Anh ưng ý tên Lượm. Chị cãi
Lượm gì mà Lượm? Lớn lên nó tủi! Tên Thơm đi, con gái có thơm
người ta mới thích, nghe ý
nghĩa lắm đa.
Anh đâu dám cãi,
mà cãi có
bận nào ăn
đâu?
Thôi muốn Thơm
thì Thơm. Còn
chữ lót? Thằng
con trai của anh là Trần
Văn Vách, nếu
con bé đặt đại
Trần Thị Thơm
nghe không có văn chương, sợ sau này bạn bè nó chê mình hổng biết lựa tên. Bàn
đi bàn lại nửa ngày, cuối cùng chị Bảy cũng quyết cái rụp: Trần Thu Thơm! Anh
lẩm bẩm trong miệng, không dám cho vợ nghe: “Mùa thu lá rụng sạch trọi, có bông
nào trổ đâu mà thơm?”
Năm
bé Thơm học lớp ba, chị Bảy sau buổi chiều mắc mưa ở rẫy, sáng ra bịnh nặng.
Anh Bảy đưa chị xuống thầy Năm Xại, một danh y có tiếng trong vùng. Vừa chẩn
mạch xong thầy hối đi nhà thương. Anh chở đi ngay, nhưng coi bộ nặng, sau hai
ngày không bớt họ chuyển chị lên nhà thương tỉnh. Song chỉ cầm cự được chừng
sáu bảy bữa rồi qua đời. Trong lúc thập tử nhứt sanh chị vẫn luôn miệng nhắc
thằng Vách, con Thơm. Chị trăng trối với chồng ráng mà lo cho hai đứa nó ăn học
đàng hoàng để mai này tấm thân dễ thở. Anh cầm tay chị thật lâu mà nghe đứt
từng đoạn ruột. Tuy miệng mồm ào ào chớ chị luôn là người vợ tốt, một lòng một
dạ cùng chồng, cam chịu cảnh nghèo, không hề so đo, phân bì với ai hết.
Thế
là anh Bảy sống cảnh gà trống nuôi con. Cố gắng phơi lưng dưới nắng, chăm sóc
từng luống rau, chắt chiu từng đồng để lo cho tụi nó. Cuộc sống vất vả, không
một ngày thảnh thơi. Hôm đó bé Thơm đi học về, khoe:
-
Bữa nay có “phái đoàn” đến thăm trường đó ba!
-
Con không biết. Nghe thầy giới thiệu “Hội bảo trợ học sinh nghèo…” gì đó. Nói
dài quá con không nhớ hết!
-
Có một bà sang trọng lắm. Bả ôm hun từng đứa. Tự tay trao quà để xem tay trò
nào sạch sẽ nè…
-
Sao không thấy con mang quà dìa?
-
Bà ấy nói… sẽ tới nhà thăm rồi
tặng quà luôn.
Anh
Bảy càng ngạc nhiên hơn:
-
Tới nhà mình? Có ghé nhà mấy đứa khác không?
-
Chỉ nghe bà ấy nói với mình con thôi, mấy đứa kia bả hổng nói…
Đúng
như lời bé Thơm. Bà ta cùng vài người nữa ghé lúc giữa trưa. Anh Bảy hết sức
lúng túng, nhà chật hẹp, không đủ ghế ngồi, đành trải chiếu mời khách mà áy náy
trong bụng. Nhưng hình như họ không quan tâm. Mở đầu bà khách nói:
-
Tui với mấy anh đây từ thành phố xuống, trước coi như du lịch, sau nhơn tiện
ghé thăm trường. Tụi tui trong “Hội bảo trợ học sinh nghèo hiếu học”, hồi xưa
cũng nghèo rớt mùng tơi, nay dễ thở rồi nên thương mấy em học giỏi mà gặp khó, có khi phải bỏ học đó anh!
Bảy
Tởn hối thằng Vách đang đứng xớ rớ vô bếp nấu nước pha trà, rồi nói:
-
Phái đoàn… tới tui rất mừng. Nhưng nhà chật hẹp xin thông cảm cho. Làm từ thiện
như mấy anh chị, tui hoan nghinh lắm…
-
Nãy giờ không thấy chị?
-
Mẹ nó mất gần giáp năm rồi!
Gương
mặt khách hơi buồn, nhìn lên bàn thờ đến tấm
hình cũng chẳng có, hèn chi không biết chị Bảy mất.
-
Một lát anh cho tui ra thăm mộ chị nghen!
Anh
Bảy gật đầu. Trong bụng hơi ngạc nhiên trước lòng tốt khác thường của người
khách lạ.
-
Thằng bé anh sai nấu nước học lớp mấy rồi?
-
Nó đang học lớp sáu trên xã, cách đây chừng vài cây số
đó
chị!
-
À… Cháu đi học bằng xe đạp?
Dòm căn nhà xiêu vẹo, bà khách cảm thấy xót xa
cho hai đứa nhỏ, nhứt là bé Thơm, chập chững vào đời với nhiều thiếu thốn.
Bà
quay sang chuyện khác:
Rồi
họ vừa uống trà vừa nói chuyện một
lát. Lúc từ giã, bà khách tặng bé Thơm một bao thơ, nói thêm với anh Bảy:
-
Đây là tấm lòng riêng của tui với cháu. Mong anh đừng cố chấp, trong đó tui
cũng dành cho cháu Vách một chiếc xe đạp.
Nói
xong bà nhờ anh đưa đi thăm mộ vợ rồi về thành
phố luôn. Anh Bảy lấy làm lạ. Đang không
một
bà lạ hoắc lạ huơ tìm đến nhà, ra vẻ ân cần. Nội cái phong bì
tặng bé
Thơm
không
kể
phần
tiền
sắm
xe đạp
cho thằng Vách, anh phải bươi
quào cả năm mới có được. Mà xem tuồng bà ta mến bé Thơm lắm, ngồi nói chuyện
với anh lại cứ ôm miết nó trong lòng. Lúc từ giã coi bộ còn bịn rịn, hẹn sẽ
quay lại nay mai. Hiểu không nổi!
Hôm
đó ở rẫy về, anh thấy nhà mình như có ai quét dọn, từ ngoài ngõ tới tận mé hiên
không một miếng rác. Cứ tưởng bé Thơm phát thinh làm siêng, anh cười thầm, mọi
khi nó quét cái sân chỉ bằng chiếc đệm còn chưa sạch, nay tiến bộ ghê. Nhưng
anh giựt nẩy người, không tin vào mắt mình. Bà khách hôm trước đang ngồi lù lù
tắm cho Thơm ở sàn nước! Sao kì cục vậy? Thình lình bà quay lại, thấy anh liền
cười:
-
Xin lỗi nghe anh Bảy. Tui hơi đường đột, không được phép anh mà dám vào nhà…
Bảy
Tởn há hóc mồm, không biết nói sao. Hồi lâu mới hỏi một câu hơi thừa:
-
Bộ… chị quét nhà cho tui đó
hả?
Bà
ta tiếp tục tắm cho bé Thơm. Con nhỏ cũng lên mười rồi, nên anh không tiện đứng
xớ rớ, bước lại bộ vạt tre ngoài hiên ngồi nhìn bầy gà con tíu tít quanh mẹ,
thấy mình như lọt vô bát quái trận đồ, không biết đường mà lần!
Lát sau bà khách bước ra, bé
Thơm
trong bộ đồ mới cực kì đẹp, hai người tới ngồi gần anh Bảy. Bà mở lời:
-
Nuôi hai đứa con chắc anh mệt lắm?
-
Cũng có mệt… nhưng… còn sức mà!
-
Tui thương đám con anh quá, nên quày lại thăm đó! À… Anh cho tui ở đây tới ngày
mai nghen?
-
Bây giờ tui nấu cơm, còn anh đi kiếm cái gì làm món chớ?
-
Hay… hay… tui bắt con gà xào sả ớt hé?
-
Ồ…còn gì bằng. Tui thích món gà xào mặn lắm!
Vừa
lúc thằng Vách đi học về. Hai cha con lo bắt gà, còn bà khách thì lui cui nhúm
lửa nấu cơm. Bà ta tỏ ra thạo việc bếp núc lắm, ngoài món xào sả ớt còn dành
giò, đầu, chéo cánh, gan, mề, nấu nồi canh chua thiệt thơm. Trước khi ăn bà dọn
lên bàn thờ chị Bảy, đốt nhang khấn vái rất lâu. Anh Bảy đi từ ngạc nhiên này
tới ngạc nhiên khác, nhưng chỉ để bụng đâu dám hỏi.
Cái
khổ của anh là nhà cửa xệu xạo như vầy, tối nay bả ngủ
đâu?
Ai đời đờn bà
gì gan quá, tự
dưng ở đêm
nhà đờn ông
góa vợ tỉnh bơ,
không e dè gì hết. Anh sanh nghi bà này bị bịnh
tâm thần chi đây. Không lẽ nào. Lời ăn
tiếng nói có thấy lạng quạng gì đâu. Thôi
thây kệ, bả không ngại, mình thắc mắc
chi cho mệt!
Khó
cách mấy rồi cũng có đường sở. Anh Bảy ra mé đường rút miếng vạt dùng ngồi uống
trà thường ngày với mấy ông hàng xóm, đem vô lót dưới hiên, cạnh bộ vạt cũ. Tối
anh sẽ trải chiếu bông và giăng cái mùng mới ở căn giữa, dành cho khách. Thằng
Vách thì nằm trên bộ vạt vừa kê. Anh ngủ trên bộ vạt cũ. Bé Thơm chắc được bà
khách cho ngủ chung, vừa dễ hủ hỉ lại phòng thủ được chắc hơn. Vậy là giữa anh và
Vách phải có một người ngủ trần. Nó còn nhỏ, chịu muỗi dở, anh già nên thịt dai
rồi, thôi nhường cái mùng cho nó. Nói thế chớ cũng nên đốt mẻ lửa un cho bớt
muỗi.
Hên
là đêm đó không mưa. Tháng Mười tối lẹ, cơm nước vừa xong thì đã sụp mặt trời,
trăng lưỡi liềm hiện lên sừng sững vào lúc chỉ mới lưa thưa vài ngôi sao lớn.
Theo đúng kế hoạch, anh Bảy lấy chiếu định trải thì bà khách nói là việc của
đờn bà, giành tự tay chuẩn bị chỗ ngủ cho mình. Anh đến ngồi
trên bộ vạt, để thêm một ít củi vào mẻ lửa, biểu thằng Vách tự giăng mùng ngủ
đi. Rồi trầm ngâm nhìn bầu trời trong vắt đầy sao, lúc này mặt sân đã loang
loáng ánh trăng mùng mười, không sáng lắm nhưng đủ để in hình những cành cây
đong đưa xào xạc.
Từ
ngày vợ mất, đây là lần đầu trong nhà có bóng đờn bà. Khiến hình ảnh người vợ
hiền năm xưa sống lại trong lòng. Anh nhớ tiếng cười của chị, nhớ cả những lời
cằn nhằn như cơm bữa. Anh hiểu tánh vợ, tuy có hơi miệng mồm chớ cái bụng
thương chồng thương con. Những đêm mưa dai, nhà dột, chị âm thầm lấy thau hứng,
nhẹ nhàng không một tiếng khua, sợ mất giấc ngủ của chồng. Mỗi khi trở trời,
anh than nhức mình, chị
cạo gió cho anh, bàn
tay dịu hiền không
dám cạo mạnh
làm anh dễ chịu. Giờ chị nằm yên ngoài vườn, đơn
độc cùng tiếng kêu rỉ rả của côn trùng, chắc lạnh lắm, hổng biết có thèm nghe
tiếng cười đùa của hai đứa con không
hả? Có còn lo cho thằng Vách, bé Thơm được học hành
tới nơi tới chốn?
Bất giác anh thấy nhớ vợ quá!
Hai
đứa nhỏ đã ngủ, tiếng
thở đều đặn,
vô tư của
chúng khiến anh thôi
nghĩ ngợi. Bà
khách lên tiếng:
-
Chưa đâu chị, còn sớm mà…
- Nói chuyện một chút nghe… có phiền anh không?
-
Có gì đâu mà phiền? Tui… quê mùa không biết bắt chuyện sợ chị phiền thì có ớ!
-
Chắc anh ngạc nhiên lắm hả?
Bảy
Tởn chưa kịp trả
lời, chị nói
luôn:
-
Bữa nay tui muốn nói lên một sự thật. Bé Thơm là con ruột của tui đó!
Anh
giật mình như người hụt chưn,
hèn gì bà ta tỏ ra quan tâm con nhỏ từ lúc mới gặp.
-
Tui là dân làng kế bên. Vì nhẹ dạ cả tin vào mối tình đầu… Chừng biết mình mang
thai mới phát hiện “người ta” đã có gia đình. Lúc đầu muốn tìm cái chết, nhưng
nghĩ đứa con trong bụng nên chịu nhục chờ ngày sanh nở. Gia cảnh lại suy sụp
nhanh chóng, cha mẹ lần lượt qua đời chỉ trong nửa tháng, tui phải lên thành phố
kiếm tiền trả nợ. Mang con theo thì ai dám mướn? Sau nhiều đêm suy nghĩ, biết
quanh đây toàn người tốt nên làm liều bỏ con trong miếu…
-
Sao bây giờ chị mới nhìn con?
Một
chút im lặng, bà ta tiếp:
-
Anh gọi tui là Hằng, em Hằng hay cô Hằng cho tiện, tui nhỏ tuổi hơn anh nhiều…
đừng gọi bằng chị, tui tổn thọ đó.
Nói
xong chị ta cười vui. Anh Bảy miệng câm như hến vì sự việc diễn ra quá bất ngờ.
Hằng nói:
-
Mấy năm đầu còn lận đận, đành cam nhẫn nhục… Tui nhận ra bé Thơm nhờ nốt ruồi ở
lòng bàn tay trái. Tui thương trẻ em vì nghèo mà bỏ học nên muốn giúp chúng
phần nào. Hằng năm thường hay đi tặng quà, dòm tụi nó mừng rở cũng vui lây,
nhơn tiện tìm lại đứa con thất lạc của mình luôn. Anh biết
không, gặp được con tui mừng
muốn xỉu, nhưng
ráng dằn ở
chỗ đông người.
Tui là một
doanh nhân
thành
đạt, trong số người đi theo hôm đó có nhơn viên của tui nữa, nên
càng phải bình tĩnh. Hơn
nữa, chỉ một nốt ruồi thì chưa chắc ăn. Tui âm thầm nhờ người dìa đây dò xét
thiệt kỹ thì không sai, nên vừa giải quyết xong việc làm ăn, tui quày lại liền.
Trước tiên là cám ơn anh đã không ngại chị hiểu lầm mà mang nó dìa nuôi dưỡng,
còn cho ăn học tử tế nữa. Phần chị Bảy, khi đứng trước mộ tui khấn nguyện sẽ
khắc sâu công lao của chị suốt đời. Tui hứa sẽ lo cho bé Thơm lẫn thằng Vách
được thành tài. Tiếc rằng chị vắn số nên không có dịp đền đáp, thôi để tui xây lại mộ gọi là tỏ chút lòng thành…
Chị
nói một hồi, anh Bảy nằm nghe chớ cũng chưa biết mở lời ra sao. Hiểu tánh anh
thật thà, chị tiếp:
- Chắc anh chưa tin tui là mẹ ruột của bé Thơm lắm?
Anh Bảy
còn nhớ bức thơ tui giấu trong cái khăn quấn bé khi đó chớ?
Tới
đây anh Bảy mới hé được miệng:
-
Chắc anh nhớ bức thơ nói gì chớ?
-
Để tui đọc lại cho anh nghe nghen?
Rồi
chị đọc chầm chậm, thuộc lòng từng chữ, y hệt những gì ghi trong bức thơ ngày
trước. Vậy là đúng bon mẹ ruột của Thơm rồi! Anh vừa mừng vừa hoang mang. Mừng
cho bé Thơm gặp lại mẹ, còn hoang mang vì sắp xa nó, một đứa con nhặt ở dọc
đường mà vợ chồng anh thương như con ruột.
Lúc
sắp ra đi chị Bảy còn gắng chút
hơi tàn gởi
gắm lại anh. Chẳng
lẽ anh sắp không
còn được nghe tiếng học bài
của nó? Chẳng lẽ anh sắp không còn được nhìn nó nô đùa với trẻ con hàng xóm?
Hay là… mình quyết giữ bé Thơm
ở
đây
thì ai làm gì? Anh nhanh chóng gạt phăng ý tưởng
đó,
vừa trái đạo
lý vừa không
bảo đảm tương
lai cho nó. Rồi buồn
bã bước ra gốc mận ngoài sân, ngồi nhìn đom đóm
bay với những cái chớp tắt phù du mà thắm thía cho đời mình.
Ngày
tháng qua đi ở cái làng này cuộc sống của anh vui buồn lẫn lộn. Mà
có lẽ buồn
nhiều hơn vui vì
có khi nào anh được
thảnh thơi để
xem một tuồng hát hay, ăn một bữa thịnh soạn? Niềm
vui duy nhất của anh là ở hai đứa con, nay sắp xa một đứa, biết chừng nào mới
được gặp lại? Anh cảm thấy trời cao thiếu công bằng, lúc mang bé Thơm về nuôi
anh đã đem hạnh phúc gia đình đánh cược. Giờ ngậm ngùi nhìn nó ra đi. Bảy Tởn
cúi đầu hình dung gương mặt bầu bĩnh, nhoẻn miệng cười khoe điểm mười lúc đi
học về, sao mà dễ thương quá! Một giọt nước mắt
nóng hổi rơi trúng bàn chân, mới hay mình đang khóc.
Thời gian chậm chạp trôi. Hằng nằm trong mùng theo dõi Bảy Tởn từ nãy giờ.
Chị dư hiểu nỗi lòng của anh. Khi lên kế hoạch nhìn lại con, Hằng cũng tiên
liệu nhiều việc, sự khó xử của Bảy Tởn là lẽ thường tình. Chị ra khỏi mùng, nhẹ
nhàng tới ngồi bên anh, im lặng chờ anh ngửng lên mới nói:
-
Em rất hiểu tâm trạng của anh lúc này.
Anh
Bảy không nhìn Hằng, cặp mắt hướng vào khoảng trống xa xa. Hằng tiếp:
-
Em muốn đề nghị với anh như vầy…
Anh
Bảy quay lại nhìn sâu vào mắt Hằng, qua ánh trăng vừa đủ sáng chị nhận ra đó là
ánh mắt của hy vọng. Giọng chị trở nên ngọt ngào:
-
Em biết anh là người tốt, thương yêu bé Thơm như con ruột. Cho nên hồi chiều,
khi cúng cơm chị, em cam kết rằng sẽ chăm sóc anh trọn đời, sẽ không bao giờ để
anh thiệt thòi…
Bảy
Tởn ngơ ngác, lỗ tai như bị lùng bùng, chị đang
nói gì
đây? Sao lại chăm sóc trọn đời? Sực thấy lỡ lời, Hằng chữa:
-
Hay… anh tiếp em coi sóc giùm một cửa hàng…
-
Tui quê mùa, có biết mua bán gì đâu?
-
Em chỉ nhờ anh coi trong coi ngoài thôi, như vậy tiện lợi cho sự học của hai
đứa nhỏ hơn là ở đây.
Bảy
Tởn làm thinh, biết Hằng muốn giúp mình có cuộc sống khá hơn, song hồi nào tới
giờ quanh quẩn nơi quê, ra thị thành sợ không quen. Nhưng từ chối, có nghĩa là
phải xa bé Thơm thực tình anh không muốn. Nhìn thái độ thật thà của người đờn
ông bên cạnh. Hằng hiểu lắm, một niềm thương cảm ở tận đáy lòng bất chợt trào
dâng. Nàng thu hết can đảm nói:
-
Thú thật với anh, em chưa gặp người đờn ông nào nhơn đức như anh. Gặp anh lần
trước, em rất “ấn tượng”. Lần này mới “khẳng định” có cảm tình với anh. Em biết
anh sẽ nói anh nghèo, không xứng với em. Nhưng anh nghĩ coi, em đã giàu như thế
này thì cần gì một người đờn ông giàu có nữa? Quý là cái nghĩa cái nhân. Việc
làm bất chấp thị phi đem con em về nuôi, cho dù có chăm sóc anh suốt đời cũng
chưa dứt nợ. Hơn nữa, sau lần cay đắng bỏ con nơi miễu hoang ấy những tưởng em
sẽ mãi mãi xa lánh đờn ông. Nhưng… nay công thành danh toại em lại thấy cần một
người chồng tốt để nương tựa. Không gì nhạt nhẽo bằng sống trong nhung lụa mà
tâm hồn trống vắng, buồn vui chẳng biết chia sẻ cùng ai. Đôi lúc em thèm ngả
đầu vào vai ai đó, thèm lắm, nhưng hơn một lần bị lừa dối, em sợ. Có lẽ anh là
người đờn ông mà em tin tưởng…
Anh
Bảy sửng sốt, há hốc mồm nhìn Hằng trân trối. Từ chiều tới giờ mọi việc diễn
biến như phim Hồng Kông đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác. Anh không nghĩ Hằng
đùa cợt, vì ai lại nhẫn tâm đùa cợt lúc này. Song những lời của Hằng quá thẳng
thắn, đến độ muốn tin liền cũng khó! Cho nên anh chỉ biết nhìn chăm chăm vào
mắt Hằng, nếu không là người trong cuộc thì thái độ ấy bị cho là suồng sã. Hằng
giả đò không thấy (hay thấy với tâm trạng đồng loã?), len lén tựa đầu vào vai
anh, khiến anh nghe trái tim mình đập loạn xạ, ngồi chết điếng, đến
độ muỗi chích
cũng không dám đập!
Một vài sợi mây che hờ mặt
trăng, khiến cảnh vật xung quanh trở nên mờ ảo. Họ ngồi yên lặng như cặp tình
nhân tuổi còn thanh xuân, mặc dù anh đã bốn mươi hai còn Hằng ước chừng ba mươi
tám…
LONG KHÁNH
______________
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét