1. Thơ ca và bia rượu: Tình hình thơ Việt Nam
hiện nay?
Ngày
nay, các nhà thơ lớp trước, thế hệ trước
năm 1975, nhiều tác giả vẫn sáng tác nhiều bài thơ hay, rồi nhiều nhà thơ trẻ
có tài năng xuất hiện và thơ dễ in nên được sản xuất nhiều hơn vì chỉ cần có
tiền hoặc có tài trợ là có tác phẩm nhưng hình như công chúng yêu thơ thực sự
(là độc giả khó tính nhất trong các thể loại văn chương vì thơ được xem là một
thứ nghệ thuật cao cấp) lại ít đi. Trong số đông tác phẩm đó, có cả “chính
phẩm” lẫn “thứ phẩm”. Công chúng yêu thơ đọc hoài thơ “thứ phẩm” (mà có người
gọi là thơ “second hand”) đến nhàm chán, gặp thơ “chính phẩm” lại tưởng là thơ
“thứ phẩm” nên chê, có người đọc hoài thơ “thứ phẩm” đâm ra nghiền loại thơ này
nên gặp thơ “chính phẩm” lại thấy nhàm chán.
Xin
kể chuyện này, chuyện thiệt 100%, không liên quan đến thơ nhưng liên quan đến
cảm nhận thơ: Có lần đi dự đám ở một vùng quê, chúng tôi đem theo một kết bia
Sài Gòn để mừng. Mấy ông bạn cũ, nay là bạn nhậu thứ thiệt trong làng lại chê
là bia dỏm, nhạt, uống “không đã” phải lấy bia Sài Gòn mua ở đầu xóm đem ra
uống. Thì ra, họ quen uống và nghiền bia Sài Gòn dỏm, nay gặp bia Sài Gòn thứ
thiệt lại chê là “thứ phẩm”, không có pha… cồn nên nồng độ thấp.
Thế
thì, hãng bia chính hiệu bị thất thu và mất uy tín do nhiều hãng bia giả hiệu
đã mạo hóa ra bia dỏm, còn hãng bia giả hiệu thu lợi nhuận cao nhiều khi hơn cả
hãng bia chính hiệu, vì không đầu tư cho cơ sở vật chất nhiều, không đóng thuế
và nguyên liệu (giả) lại rẻ. Người uống bia là thiệt thòi nhiều nhất: tăng “đô”
theo chiều hướng xấu, cơ thể hao mòn vì uống nhiều bia giả gồm nước lã, ga và
rượu cồn có nồng độ cao thay vì men lúa mạch. Do mọi sự so sánh đều khập khễnh,
nên câu chuyện “thật - giả” trên có lẽ chưa nói rõ được điều liên quan đến hai
mặt hàng (Bia Rượu và Thơ Ca): người sản xuất bia “thứ phẩm”, trốn tránh pháp
luật vì không có giấy phép sản xuất, còn người sản xuất ra thơ “thứ phẩm” thì
đàng hoàng, công khai vì có giấy phép xuất bản hẳn hoi; bia rượu và thơ ca đều
cần chất lượng cao, nhưng bia được sản xuất hàng loạt nên mỗi chai từ hình thức
(mẫu mã) đến nội dung (hàm lượng) đều giống nhau là tốt, nhưng thơ ca thì không
được thế. Mỗi “chai” đều phải “không giống ai”, từ hình thức (ngôn ngữ) đến nội
dung (tình và tứ) mỗi “chai” lẽ ra phải có một vẻ, một “hương vị” riêng. Tuy
nhiên, chúng có nhiều điểm giống nhau đến… thú vị: cả hai nhà sản xuất hàng
“chính phẩm” (bia và thơ) đều cần đưa hàng thứ thiệt đến tận tay người tiêu
dùng, còn người tiêu dùng “sành điệu” đều cần đến nhà sản xuất chính hiệu,
nhưng họ đều không gặp nhau được, do có “anh” sản xuất hàng kém chất lượng đứng
chắn ngang và trong quan hệ giữa người sản xuất hàng kém chất lượng với người
tiêu thụ thì nhà sản xuất thứ phẩm (bia và thơ) luôn luôn “đầu độc” khách hàng làm suy yếu
“khẩu vị”, khả năng cảm thụ của họ, mỗi loại nhà sản xuất thứ phẩm (bia và thơ)
theo một kiểu khác nhau.
Trở
lên là nói chuyện thơ ca và bia, bây giờ xin nói chuyện thơ ca và rượu. Từ đầu
thập niên 30 của thế kỷ trước - khi phong trào thơ mới bột phát, các nhà phê
bình và các nhà thơ thường sử dụng các từ “bình”- “rượu”- “cũ”- “mới” để chỉ:
hình thức thơ - nội dung cảm hứng thơ - truyền thống cổ điển- cách tân hiện
đại. Đang nói chuyện thơ ngày nay (mới) nên xin phép không nhắc đến từ “cũ” nữa
mà chỉ vận dụng 2 cụm từ “bình mới” - “rượu mới” để chỉ thơ VN ngày nay. “Bình
mới” - “rượu mới” trong thơ VN ngày nay có thể nói rất đa hệ với những trăn trở
tìm tòi thử nghiệm sáng tạo của các nhà thơ đương đại thuộc nhiều lứa tuổi nên
đã hình thành nhiều xu hướng, nhiều trào lưu sáng tác, nhiều dòng thơ… rất đa dạng. Trong số đó thời
sự nhất trong những năm gần đây là chủ nghĩa hậu hiện đại (Postmodernism) và tân hình thức (New Formalism). Chỉ nói về 2 phương pháp
sáng tác nầy: nếu qui chụp vào “bình mới” - “rượu mới” thì có thể coi: “bình
mới” = tân hình thức + các thủ pháp nghệ thuật mà hậu hiện đại chấp nhận và
dung hóa; “rượu mới” = cảm thức hậu hiện đại.
Chủ
nghĩa hậu hiện đại được một số văn nghệ sĩ VN tiếp nhận và thực tế nó đang trở
thành một xu hướng sáng tác (xu hướng chứ chưa phải là trào lưu) trong thơ ca
đương đại VN nhất là trong giới sáng tác trẻ. Có nhiều cây bút đã vận dụng
thành công phương pháp sáng tác nầy và “đứng được” trên thi đàn. Nhưng cũng
không tránh khỏi thực trạng lạm dụng cái mới cái lạ, “học chưa hết chiêu đã
hành nghề”… gây ra một môi trường thơ hổ lốn đầy rượu dỏm bơm vào vỏ rượu Tây.
Cho nên, có những bài thơ tắc tị nhưng
ngụy trang bằng một cảm thức cao siêu kiểu như là một số người viết chữ xấu đọc
không được lại thành nghệ thuật thư pháp tiếng Việt vậy. Phổ biến nhất là loại
thơ dung tục, thông tục hóa tầm thường - cả nội dung lẫn hình thức mà có lẽ tác
giả của nó chưa học hết chiêu “tục và thanh” trong thơ truyền thống…
2. Phân biệt thơ và cái không phải thơ:
Xác định thế nào là thơ?
Lại
đụng phải một vấn đề lớn, khó khăn của lý luận văn học đây. Xưa nay, các bậc
học giả đã thường tìm cách định nghĩa, nhưng có thể nói, đây là “một câu hỏi
lớn không lời đáp” vậy. Hình như con số định nghĩa về thơ phải có đến hàng
ngàn, có điều không có cái nào giống cái nào, điều đó chứng tỏ cái cụ thể đó
(thể loại thơ) lại rất trừu tượng và khó nắm bắt. Chẳng hạn theo Voltaire: “Thơ là hùng biện du dương”, theo A.De
Musset: “Thơ là tiếng nói nhẹ nhàng của
tâm tình”. Ở VN ta cũng có hàng chục định nghĩa về thơ. Chẳng hạn, theo Tố
Hữu: “Thơ là tiếng nói đồng tình, đồng ý,
tiếng nói đồng chí”, còn Chế Lan Viên: “Thơ
là gì? Là thơ lơ mơ …”. Hai định nghĩa về thơ của hai danh nhân nước ngoài
khác nhau hoàn toàn, thậm chí đối nghịch nhau và xác định đối tượng phản ánh
của thơ cũng không giống nhau: là du dương của hùng biện, là nhẹ nhàng của tâm
tình. Còn hai định nghĩa của hai nhà thơ VN cũng vậy: là tiếng nói đồng cảm,
đồng điệu (Tố Hữu), là tâm hồn bảng lảng, bay bổng, mơ màng… (Chế Lan Viên).
Nhà
thơ dù lớn, vừa vừa, hay nhỏ, tự mình cũng phải xác định thơ là gì khi cầm bút
sáng tác ra thơ, (dĩ nhiên là sự xác định này không ai giống ai).
Nói
theo dân gian: Trước khi làm phải biết mình làm cái gì thì mới làm được. Hơn
nữa, thơ hiện đại luôn đòi hỏi là nhà thơ có tri thức, kể cả tri thức lý luận…
Xác định “thơ là gì” theo lối thực tiễn thì có công thức 3T: Tình – Từ – và
Tứ.
Thơ
trước hết phải có “Tình”, tức là nhà
thơ phải có tình cảm mãnh liệt, chân thật và sâu sắc đối với đối tượng trữ
tình; phải có rung động (cảm xúc) đột xuất, cao trào và bức xúc để tự “bức
bách” mình phải “động thủ” thành thơ; đồng thời tình cảm và rung động này phải
đủ để làm nảy sinh, hòa nhập “quấn quít” với một trí tưởng tượng phong phú, bay
bổng.
Thứ hai là“Từ”,
tức là ngôn ngữ thơ. Thơ là nghệ thuật bậc cao của ngôn ngữ, mà là ngôn ngữ
hình tượng. Ngôn ngữ thơ phải mới, phải sáng tạo không lặp lại người khác,
không lặp lại mình, không ước lệ sáo mòn, nói theo ngôn ngữ hiện đại là không
“lập trình sẵn”. Ngôn ngữ đó phải càng “lệch
chuẩn” càng hay. Vì càng “lệch chuẩn” càng tránh được sự sáo mòn, lặp lại,
lập trình sẵn ngôn ngữ, điều kiêng kị nhất trong thơ. “Lệch chuẩn” nghĩa là vừa
giống mọi người (chuẩn), vừa khác mọi người (lệch). Vì cái “Giống” tức là theo chuẩn mực chung về sử dụng ngôn ngữ để mọi
người hiểu được. “Khác” tức là phải
có cái mới, cái lạ mới thành thơ để mọi người thích, thấy thú vị... Chẳng hạn
như Nguyễn Du viết:“Trăm năm trong cõi
người ta” (Truyện Kiều) thì cái “giống” (chuẩn) là: cõi trời, cõi trên, cõi
Phật, cõi trần gian … theo kết cấu cụm từ tiếng Việt, chứ chưa ai nói “cõi người ta” như Nguyễn Du cả.
Khi Tố Hữu viết: “Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ (Từ ấy), thì cái “giống” (chuẩn) là:
“từ đó, từ ngày ấy” chứ chưa ai nói: “từ ấy” cả. Gần đây, Hoàng Nhuận Cầm viết:
“Hạ chưa về nhưng nắng đã Côn Sơn” (Sông Thương
tóc dài) thì thiệt là “quá đã”. Nếu viết theo “chuẩn”
thì: sau phó từ (đã) và trước danh từ
chỉ địa danh (Côn Sơn) lẽ ra phải là
một động từ chỉ sự di chuyển: Không thể nói “đã Sài Gòn, đã Biên Hòa”, mà phải
nói: “đã đi Sài Gòn, đã về Biên Hoà”. Nhưng ở đây Hoàng Nhuận Cầm lại nói được,
mà người đọc thơ không những hiểu, chấp nhận mà còn thích thú nữa: “đã Côn
Sơn”, thế thì có “đã đời” không? Cái “giống” (chuẩn) là Hoàng Nhuận Cầm vận
dụng quy luật tiết kiệm của ngôn ngữ dựa trên điệp kết cấu các vế trong câu và
nghĩa “hàm ngôn” của từ “nhưng” (để tạo ra cái “lệch”): “Hạ chưa về (1) nhưng nắng đã Côn Sơn”(2). Hai vế câu đều có thành
phần chủ ngữ là biểu tượng thiên nhiên (Hạ và nắng), thành phần vị ngữ đều có
hai phó từ chỉ thời gian đối lập nhau (chưa, đã), với quan hệ từ “nhưng” biểu
thị quan hệ hai vế tương phản nhau về ý, vậy thì vế (1) là “chưa về” thì vế 2
theo logic câu phải là “đã về, đã tới Côn Sơn”, câu thơ do vậy đọc mới “sướng”!
Hoàng Quý viết: “Chớ cười hoang vu như thế nữa”(Thôi em về
đi). Hoang vu là nói về nét hoang liêu, vắng vẻ của một vùng đất, ở đây nhà thơ dùng để chỉ nụ cười của cô gái: cười hoang vu là nụ cười trong trắng, vô
tư, ngây thơ, hồn nhiên và…dại khờ. Thi sĩ đã
lắp ghép những từ cũ kỹ để tạo thành từ ngữ mới mẻ, lạ lẫm, táo bạo, tưoi rói, đắt địa, biến ảo, có “hồn chữ cựa quậy”, có sức biểu nghĩa
phong phú và sức biểu cảm lắng sâu làm người đọc vừa sửng sốt, vừa khoái cảm…
Nếu như họ dụng từ theo kiểu “Trăm năm trong chốn người ta”, “Từ đó, trong tôi bừng nắng hạ”,
“Hạ chưa về nhưng nắng tới Côn Sơn”, “Chớ cười
ngây ngô như thế nữa” thì chưa chắc ngày nay chúng ta có thi hào
Nguyễn Du, nhà văn hóa lớn của thế giới, Tố Hữu là thơ lớn, lá cờ đầu của thơ
ca Cách mạng suốt ba thập niên rưỡi (1930 -1975) và Hoàng Nhuận Cầm, Hoàng Quý, hai
trong những nhà thơ tiêu biểu của thơ ca
VN đương đại.
Thời gian gần đây, giới thơ ca đang xôn xao
về bài thơ dài “Trăng ca” của tác giả
trẻ Võ Thị Phương Thúy đăng trên nhiều diễn đàn văn chương. Thành công của bài
thơ do nhiều yếu tố hợp lại: điêu luyện - cách tân - tứ thơ mới - cảm xúc, cái
nhìn lạ lẫm về trăng… Nhưng có một yếu tố quan trọng đã biến câu lục bát thành
thơ lục bát mà tác giả vận dụng rất có tay nghề là: ngôn ngữ thơ “lệch chuẩn”
một cách rất có ý thức:
“Em còn trăng lót vạt nằm
Tôi còn
em ngậm đóa rằm chưa bưa” (Trăng ca)
Thứ ba là
Tứ. Tứ thơ là một khái niệm có vẻ rất khái quát và trừu tượng nên rất khó
diễn giải. Theo tôi, “tứ” được hiểu như là một phương thức nào đó để tổ chức
liên kết các ý trong bài thơ và hệ thống các ý đó với “tình” của nhà thơ và
biểu hiện chúng bằng yếu tố ngôn ngữ (từ). Cả ba yếu tố đó tổng hòa trong một
thể thống nhất gọi là bài thơ – tác phẩm. Như thế, chất trí tuệ, tình cảm- rung
động, năng lực hư cấu văn học và trí tưởng tượng của nhà thơ được vận dụng hết
công suất để xây dựng tứ thơ mà giới chuyên ngành gọi là “cấu tứ”. Chính tứ thơ là một yếu tố cốt lõi để văn bản trở thành
bài thơ, là yếu tố không thể thiếu của một bài thơ, nhất là thơ hiện đại. Thơ
tứ tuyệt đường luật chỉ ngắn bốn câu, nhiều bài ta thuộc lòng mà vẫn thích đọc
lại, thích ngâm vì tứ thơ quá hay, quá bất ngờ. Thơ Hai - ku của Nhựt Bổn, chỉ
có ba câu, ta chỉ đọc qua bản dịch mà vẫn cảm được vì tứ thơ quá lạ, quá
“siêu”.
Bài thơ hai câu của Phan Thị Thanh Nhàn: “Người tôi yêu ở rất xa – Người yêu tôi ở
gần nhà, chán không?” được rất nhiều người Việt Nam yêu thích vì tứ thơ quá
thiệt, quá quen mà quá lạ. Ngày nay, nhiều bài thơ văn xuôi dài ngoằng, gần như
không vần, không luật, rất khó nhớ mà có người vẫn thuộc lòng vì tứ thơ quá độc
đáo. Dù có vần, có điệu mà không có tứ thơ thì không thành bài thơ mà chỉ là
vè, văn vần, là “chơi thơ”, là khẩu hiệu tuyên truyền cổ động… mà thôi.
Còn cấu tứ
của một bài thơ Đường luật thì nằm ngay trong kết cấu (bố cục) của bài
thơ. Người làm thơ luật Đường nếu tuân thủ những qui định nghiêm nhặt của chủ
nghĩa cổ điển trong bố cục chặt chẽ (bát cú: đề_ thực_ luận_ kết; tứ tuyệt:
khai_ thừa_ chuyển_ hơp) của thể thơ đang sử dụng thì tứ thơ hình thành. Dĩ
nhiên giá trị của bài thơ còn tùy thuộc vào những yếu tổ còn lại: tình, từ, ý thơ.
Không quan niệm thế, không chú trọng yếu tố
“tứ” trong thơ, một quan niệm khá phổ biến hiện nay, mà tiêu biểu là trong một
số sách giáo khoa, giáo trình… là thay thế yếu tố “tứ” bằng yếu tố “tính nhạc”
của thơ. Ai làm thơ cũng biết câu: “Thi
trung hữu họa, thi trung hữu nhạc”, vậy thì tính nhạc nằm đâu trong 3T? Xin
thưa: Nó nằm trong “từ” (ngôn ngữ thơ). Ngôn ngữ thơ có hai mặt: ngữ nghĩa (có
thể coi như thuộc về phạm trù tinh thần) như đã nói qua ở trên và tính nhạc (có
thể coi như như phạm trù vật chất)
Tính nhạc trong thơ
bao gồm 4 yếu tố: âm, thanh, vần, nhịp của thơ, trong đó, theo tôi thanh (nhóm
thanh bằng, nhóm thanh trắc, nhóm thanh cao, nhóm thanh thấp) và nhất là nhịp
(tiết tấu) là hai yếu tố quan trọng nhất, thiếu nó văn bản không thể thành thơ,
Chính chúng đã góp phần làm cho thơ văn xuôi hội đủ điều kiện thành thơ, vì bài
thơ có thể không vần, không cần có sự hài âm, nhưng không thể thiếu yếu tố hài
thanh và tiết tấu. Ngoài ra, còn phải kể thêm nhạc điệu nội tại của bài thơ
toát ra từ tình và tứ của bài thơ. Cũng có người ngược lại, coi nhẹ yếu tố nhạc
tính trong thơ, vì xem đó chỉ là yếu tố hình thức, mà quên rằng: Hình thức
trong thơ nói riêng và trong văn học nghệ thuật nói chung là hình thức đã được
“nội dung hóa”, nói thẳng ra: hình thức thơ, trong đó có tính nhạc, cũng chính
là nội dung thơ…
3. Làm sao
tránh được tình trạng… lạm phát thơ như hiện nay?
“Cái
không phải thơ” nhưng lại “giống thơ”
đã gây bao ngộ nhận. Công chúng ngộ nhận là thơ, còn người làm thơ ngộ nhận về
tài làm thơ của mình. “Cái giống thơ”
lại dễ làm. Khi học cấp THCS đã được học các thể thơ rồi, bây giờ lập trình,
ráp chữ, đúng luật bằng trắc thì thành “cái giống thơ” thôi. Nên có rất nhiều
người làm thơ, in ra hàng loạt để… tặng và để… “thành” nhà thơ. Do đó, người
làm thơ phải tự kiểm định thơ mình trước khi đưa thơ ra mắt công chúng, nhưng
mà khó lắm, vì “văn mình, vợ người” mà. Xin mượn câu nói của nhà thơ Inrasara
để tạm kết luận: “Nhà thơ cần biết sợ thơ…
để người đọc còn cần đến thơ”.
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét