|
Chợ nổi trên sông Cần Thơ
Ảnh: Lê Thiên Minh Khoa |
Một
chuyến du hành Miền Tây Nam Bộ một tuần lễ đi từ Đông sang Tây, xuống Nam, vòng
lại Đông, rồi từ Nam lên Bắc, trở lại Tây, vòng sang Đông về Vũng Tàu, tham
quan gần hết 13 tỉnh thành Đồng bằng sông Cửu Long theo “Trại Sáng Tác bay” do
Hội VH-NT tỉnh BR-VT tổ chức. Và nhà thơ
trẻ Trịnh Sơn đã ghi lại cảm xúc, suy
nghĩ, liên tưởng và một số tình tiết trong cuộc du hành sáng tác thú vị nầy.
Hẹn lần lữa hơn nửa năm trời, cuối cùng chúng
tôi cũng thực hiện được niềm mong muốn giản dị ấp ủ đã lâu: Thăm Miền Tây sông
nước. Xe lăn bánh lúc 6 giờ sáng. Đoàn văn nghệ sĩ già có trẻ có, nam có nữ có,
hào hứng với câu dẫn chuyện của anh chàng hướng dẫn viên du lịch: - Chỉ đêm nay thôi, chúng ta đã có thể khám
phá một chút Cửu Long rồi!
Có người quê Miền Tây, có người sống nhiều ở
Miền Tây. Cũng có người chưa hề biết Miền Tây ra sao. Tâm trạng phủ đắp lên
nhau trên chuyến xe chật chội 20 người và hành lý. Tôi khều tay nhà thơ Hoàng
Quý hỏi:
-
Điểm
đến đầu tiên là đâu hả chú?
- Rạch Gầm – Xoài Mút.
Chỉ bốn tiếng gọn lỏn ấy thôi mà hàm đựng biết
bao trang sử oai thiêng. Tượng đài người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ vung kiếm
đâm vào trời hiện ra trước mặt. Không ai bảo ai, chúng tôi cùng đứng lặng im
dưới bóng người xưa, tưởng niệm về Chiến công Quang Trung đại thắng 5 vạn quân
Xiêm năm nào. Ai cũng muốn chụp một tấm ảnh kỷ niệm dưới chân huyền thoại. Lấn
át tâm hồn tôi lúc đó, là câu hỏi, đến bao giờ dân tộc Việt Nam lại có thêm một
người anh hùng quả cảm, thao lược vẹn toàn, đánh tan bè lũ xâm lược, mở mang bờ
cõi như Nguyễn Huệ?
Rời Tiền Giang, xe chầm chậm qua Mỹ Thuận, rẽ
hướng Châu Đốc. Thỉnh thoảng một khúc nhà cửa, còn hầu như hai bên đường là
ruộng đồng xanh ào ạt. Trên tấm thảm lúa, dưới ánh mặt trời chói chang mùa hè,
màu xanh như bay lên cao hơn sắc màu thực có của nó. Nhà thơ Lê Huy Mậu nhắc
người nghệ sĩ nhiếp ảnh:
- Sao không ghi lại hình ảnh những ngọn nến thắp
đồng kia?!
- Nến đâu?
-
Ấy, bầy
cò trắng kiễng chân trên nền xanh, có khác gì những ngọn bạch lạp soi giữa đêm?
Người nghệ sĩ luôn nhạy cảm với bốn bề cảnh
vật xung quanh mình. Dù lướt qua nhanh nhanh hay dừng lại lâu lâu. Đôi mắt của
anh găm niềm tâm cảm sẵn có vào hồng tâm thiên nhiên. Sáng tạo – phải chăng bắt
đầu từ những vụn nhìn ngắm và chắt nhặt?
Tháng 7. Tôi thấy nhiều người dân đang cần mẫn
tu bổ lại cột, sàn nhà mình. Chờ mùa nước nổi, chờ lũ về. Những cột nhà nho nhỏ
mọc từ ruộng từ vũng lên, gánh gồng mảnh nhà sàn bám vào mặt đường. Những cây
cột hình vuông để cho rắn không bám quấn lên được. So với chuyến đi mấy năm
trước, tôi có cảm giác Miền Tây đang hẹp dần ruộng đồng, nhà cửa nhiều hơn, cầu
bê tông đông hơn, tự nhiên thèm lạt một dáng nhỏ em gái bà ba đơn sơ cắp cặp
lắc lư qua cầu khỉ. Đất nước trở mình theo con sóng kinh tế mở, rồi mốt mai bao
nhiêu phù sa chín nhánh Miền Tây còn ở lại với đồng?
Hoàng hôn thảnh thơi về trên ngọn Thất Sơn.
Nghĩ mà lạ, cả vùng chiêm trũng đột ngột để lại một dãy núi ngang tàng. Hỏi nhà
thơ Trịnh Bửu Hoài, ông nhẹ nhàng:
- Đất và người Miền Tây là vậy đó!
Nơi chúng tôi đang ngồi đây, cách biên giới
Việt Nam
– Campuchia đúng 1800m đường chim bay. Đêm Châu Đốc rộn ràng mắm, rộn ràng
người. Tràn đầy những mâm với thúng. Trước cửa Miếu Bà Chúa Xứ, có một chị da
ngâm ngâm chạy theo hỏi tôi:
- Có vào viếng Bà không? Mua heo quay làm lễ
giúp chị nè.
Thấy tôi im lặng, chị tiếp:
- Không
đủ tiền mua, thì chị cho thuê. Viếng Bà xong trả lại. Giá cả tính theo giờ.
Trời ạ! Thần thánh đã bị đem ra ngã giá, kinh
doanh đến nông nổi vậy sao? Tôi trở về phòng nghỉ lúc 2 giờ sáng. Chợ mắm Châu Đốc
chiều nay, còn in vào tôi nhiều đôi mắt tròn đen của những em bé Khơme bán vé
số áo rách lây lất giữa mảnh đất thừa mứa phù sa cá mắm của mình.
Tịnh Biên nằm ở phía tây của Núi Cấm.
Vào các dịp lễ hội, chợ biên giới đón một lượng khách du lịch ghé lại mua sắm
các mặt hàng miễn thuế giá rẻ rất lớn. Khoảng thời gian này, chợ tương đối vắng
khách. Nhưng các mặt hàng bày bán trong chợ vẫn cao ngất và đầy đủ. Từ các rổ
bò cạp, tắc kè tươi khô đủ loại, các loại nông sản mà đặc trưng nhất là thốt
nốt, cho đến quần áo, chiếu tre, các mặt hàng mỹ phẩm của Thái, Cam, nhiều nhất
là hàng điện máy, đồ chơi trẻ em của Tàu. Trước khi đoàn vào chợ, anh hướng dẫn
viên du lịch đã nhắc nhở:
- Hàng
giá rẻ, nhưng “thượng vàng hạ cám”, người bán nói thách gấp hai ba lần. Chúng ta phải xem hàng kỹ lưỡng và trả
giá. Đừng vội ham rẻ mà mất tiền mua một “món tức” lên xe nhé!
Tôi tủm tỉm cười, ngồi quán cóc bên hông chợ
chờ xem các nhà văn, nhà thơ của chúng ta mua - bán thế nào. Có rất nhiều anh,
chị, em quẩy đồ la mọc mời. Tôi cầm thử một cái kính mát. Ghi nhãn Rayban nổi
tiếng.
- Hàng tốt đó em! Không thuế nên chỉ có 200
ngàn.
- Trời ạ. Tốt đâu mà tốt. Hàng này Sài Gòn đầy, của Trung Quốc. Cân ký bán ở Chợ Lớn.
- Thôi mà em. Trả giá rồi mua giúp chị đi.
- Mười lăm ngàn nhé!
- Trả thêm đi em. Lỗ vốn chị.
Cứ theo kiểu kèo nài thế này, tôi biết, cái
kính mát đã không còn là kính mát nữa rồi. Chị ta đồng ý.
Khoảng một tiếng đồng hồ, cả đoàn hăm hở tay
xách nách mang lên xe. Cùng một mặt hàng nhưng mỗi người mua mỗi giá. Buồn cười
nhất là cái đồng hồ Rolex của nhà thơ kia mua 180 ngàn, mới cáu cạnh, gõ đá vào
mặt kiếng không vỡ, thử thì chạy tốt, nếu mua hàng chính hãng phải vài
triệu, nhưng vừa lên xe, không hiểu do
mừng quá hay sao mà làm rơi xuống ghế, sút cả bộ máy bên trong ra. Dây cót,
vòng quay, bánh xe – toàn đồ mủ cả.
Ai đó nói lớn cho cả đoàn nghe:
- Chỉ có thốt nốt là hàng thật và giá rẻ!
Tạm biệt sông Châu Đốc, chúng tôi theo con lộ
nhỏ chạy dọc kênh Vĩnh Tế đi Hà Tiên. Con kênh đào thẳng tắp, khởi công từ tháng Chạp 1819 dưới triều Gia
Long, trải qua nhiều giai đoạn trong suốt 5 năm mới hoàn thành dưới triều Minh
Mạng. Cứ nhìn tầm vóc con kênh mà ngẫm nghĩ tới cái tâm cái trí của người xưa.
Bao nhiêu mồ hôi nước mắt đổ xuống đất này, để tạo nên một công trình thông
thương, phát triển cả vùng biên giới, vừa là để giữ yên biên cương lãnh thổ.
Tương truyền, thời ấy làm gì có thước có mốc để đo cho thẳng, người xưa khôn
ngoan chọn ban đêm thắp đuốc làm mốc, nhân công cứ việc nhắm hướng có ánh sáng
phát hiệu mà đào.
Thấp thoáng bên kia biên giới, những nóc nhà
Khơme ươm khói bên sườn đồi. Cảnh chiều xuống tuyệt diệu như tranh Lêvitan. Nhà
thơ Lê Huy Mậu bất thần đọc:
Sông
Cửu Long xòe chín nhánh phù sa
Mở
khoáng đạt một vùng châu thổ
Tháng 7
Miền
Tây
Xoài ửng má
Ngút
màu xanh lúa trải tận chân trời
Có điều
chi bâng khuâng quá người ơi!
Xe chạy
tới lòng mình thì nhớ ngược
Thương
quê nghèo đồng cằn ruộng chật
Hạt
thóc thành dằm nhặm giữa giấc mơ
Đây phì
nhiêu hoa trái bốn mùa
Đây
đồng bằng kinh rạch dày tơ nhện
Đất
phồn thực sinh người phóng khoáng
Tiếng
đờn ca cũng tài tử, giang hồ
Miền Tây Miền Tây! Những đứa con Miền Đông đất
đỏ đang sững người trước vạm vỡ khoáng đạt vựa lúa lớn nhất đất nước.
Chủ đề lớn nhất của các cuộc trò chuyện dọc
chuyến đi, không phải văn chương phù phiếm, cũng chẳng phải dịch vụ du lịch gì
– mà là, thời sự Biển nóng. Mọi lúc, mọi nơi, ai ai cũng nói về biển, hỏi về
biển, sẻ chia tâm trạng mình với biển. Thầm thì trong tôi đôi câu thơ của Bế
Kiến Quốc:
Sinh ra ở đâu, mà ai cũng anh hùng?
Tất cả trả lời: Sinh bên một dòng sông…
Chẳng phải sông Đà, sông Mã, sông Hồng đôi bờ
cát mênh mông,
Thì cũng sông Trà, sông Hương, sông Cửu Long
uốn chín đầu rồng
Chẳng phải rộng xa một tầm cò vỗ cánh,
Cũng xinh xinh vài sải chèo quẫy mạnh
Quê hương Việt Nam mườn mượt những cánh đồng
Mỗi con người gắn bó một dòng sông
Khi ta bé dòng sông nào cũng rộng
Chiếc thuyền giấy gửi tuổi thơ theo sóng
Một cánh cò vỗ lả xuống lòng ta…
Từ nguồn nào, sông cũng nặng phù sa
Đời ông cha từng cuốc đất, dựng nhà.
Khơi tưởng tượng, những chuyện xưa mẹ kể
tuổi thơ ngây ngỡ dòng sông nhỏ bé
Cửa quê mình Trần Quốc Toản từng qua…
Rồi biết nghe chuyện anh, chuyện cha
Biết tự hào: Sông đã từng đánh Pháp
Nước lấp mặt những ca nô tan xác
Bãi lau già chuyển cán bộ qua sông…
Những dòng sông ngàn năm ôm cánh đồng
Khi ta vào đời, Đời đã cấy cày chung
Xanh sắc lúa xoá bờ gầy đói khổ
Mặt cánh đồng nhờ mặt người soi hộ
Trên dòng sông – là một tấm gương trong…
Miền Tây kênh rạch chằng chịt vẽ lên tôi những
đường vân lịch sử của dân tộc. Khi đỏ hồng hùng ca, lúc vàng vọt bi kịch.
Nhưng, bàn tay đất nước chẳng bao giờ buông thả những đứa con của Người. Từ
Trương Định cãi vua quyết tâm đánh Pháp lưu danh muôn đời, cho đến nữ tướng
Nguyễn Thị Định anh hùng “còn cái lai quần cũng đánh”. Truyền thống – Văn hóa
là tài sản quý báu nhất cha ông để lại cho muôn sau, không cá nhân nào có quyền
phá bỏ hoặc cản trở dòng chảy tự nhiên của dân tộc.
Đứng trước tượng đài hình con thuyền đánh dấu
vị trí địa lý Đất Mũi – "Nước Việt Nam
trải dài từ Ải Nam
Quan đến Mũi Cà Mau", nhiều người trong chúng tôi không giấu được niềm
xúc động ngấn nước mắt.
So với 5 năm trước, Đất Mũi hiện tại đã thay
da đổi thịt và phát triển hơn rất nhiều. Ngồi trên tàu cao tốc, thấy hai bên bờ
sông đã có nhiều trường học, nhà cửa mới xây, khang trang vững chãi. Chính
quyền đã và đang nỗ lực nâng cao cơ sở hạ tầng, chất lượng đời sống cho nhân
dân địa phương, hỗ trợ người dân bám đất giữ đất mà không phá hoại sinh thái.
Diện tích rừng ngập mặn bị thu hẹp nhiều,
nhưng toàn tỉnh vẫn còn giữ được khoảng 100.600 ha. Vấn đề cấp bách nhất bây
giờ, theo Nhà văn Lê Đình Trường – Tổng biên tập Tạp chí Văn nghệ Cà Mau, là
làm sao để phát triển chất lượng sống cho dân mà vẫn bảo vệ được rừng?
Không dưng, tôi nhớ đến Cánh đồng bất tận của
Nguyễn Ngọc Tư. Không biết trong bao khuôn mặt lướt qua tôi suốt sông nước Cà
Mau, có bao nhiêu số phận Út Vũ, Sương, Nương, Điền còn âm ỉ đâm chồi?
Chuyến đi liên tục 6 ngày trải qua nhiều bắc,
nhiều cầu, nhiều bè bạn Miền Tây rồi cũng phải kết thúc trong niềm luyến lưu và
tiếc nuối. Mọi người lại hẹn nhau, đây chỉ là chuyền đi “tiền trạm”, rồi sẽ sớm
quay lại, lâu hơn, ở với lúa gần hơn để thực sự cảm nhận chân thực và rõ ràng
về một vùng xứ sở.
Nhà thơ Lê Thiên Minh Khoa đặt ra câu hỏi thú
vị:
- Có bao nhiêu địa danh Miền Tây bắt đầu bằng
chữ “Cái”?
Mọi người bắt đầu đếm. Và, bắt đầu nhớ: Cái Răng, Cái Khế, Cái Vồn, Cái Tắc, Cái
Sắn, Cái Bè, Cái Nứa, Cái Ðôi, Cái
Bát, Cái Môn, Cái Sách, Cái Thia, Cái Nưa, Cái Cỏ, Cái Mơn, Cái Nhum, Cái Kè, Cái Tắc, Cái Cát, Cái Nhum, Cái Ða Trại, Cái Mít, Cái Cá, Cái Gấm, Cái Bông, Cái
Cối, Cái Cá, Cái Sơn, Cái Cui, Cái Dứa, Cái Cối, Cái Cái,
Cái Tiêu, Cái Sơ, Cái Bé, Cái Sơn, Cái Sơn Bé, Cái Muối, Cái Gà, Cái Lớn,
Cái Bàn, Cái Cui, Cái Sâu, Cái Gia, Cái Ðôi, Cái Côn, Cái Cao, Cái
Trâm, Cái Trưng, Cái Dầu, Cái Chanh, Cái Chanh Lớn, Cái Muồng, Cái Da, Cái Sình, Cái Su, Cái Oanh, Cái
Xe, Cái Ðường, Cái Trầu, Cái Dầy, Cái Tràm, Cái Cùng, Cái Ngang, Cái Nải, Cái Keo, Cái Ngay, Cái
Nước, Cái Rô, Cái Ðôi, Cái Ðôi Vàm, Cái
Tàu, Cái Tàu Hạ, Cái Tàu Thượng…
Cũng là hội viên Hội Khoa học
Lịch sử Việt Nam, lại sống ở Nam bộ từ nhỏ, có nghiên cứu sâu về ngôn ngữ, địa danh Nam bộ nên sau khi bổ sung thêm nhiều “cái” nữa, Lê Thiên Minh
Khoa giải thích rành rẽ, thông thạo và cũng thú vị, bất ngờ về từ “cái” và xung quanh các
địa danh nầy. Theo anh, là tiếng cổ của
dân tộc Phù Nam,
“cái”
(trong các địa danh kể trên) theo từ
nguyên, nghĩa là “sông con” (ngoại trừ Cái
Răng, tên một quận của tỉnh Cần Thơ trước 1975 là khác - Cái Răng nầy
nguyên là gốc tiếng Khơme đọc “carăng” phiên âm là Cà Ràng là cái lò nấu ăn làm
bằng đất sét - khác với Vàm Cái Răng ở tỉnh
Tây Ninh nằm ngoài ngoại lệ nầy - tức cái vẫn là “sông con” như ở toàn Nam bộ). Do đó,
những địa danh ở Nam
bộ bắt đầu bằng chữ Cái ban đầu thường để
gọi những kênh, rạch, vàm, cù lao hoặc vùng đất nằm
gần một con sông nhỏ, chảy ra một con sông lớn. Nhưng cũng có những cái tên được dùng để chỉ nhiều vùng đất khác nhau. Nhiều
lắm! Như hai Cái Răng kể trên hoặc Cái Nhum (cùng với Cái Mơn) nằm trên Cù Lao Minh thuộc huyện Chợ Lách, tỉnh Bến Tre và Cái Nhum ở huyện Mang Thít, tỉnh Vĩnh Long v.v… Cũng có những địa danh tương tự nhau, nhưng ở cách xa nhau và không
liên quan gì với nhau. Như “cái tàu” chẳng hạn. Cái Tàu nghĩa
là “con sông nước lạt”. Huyện U Minh, tỉnh Cà Mau có con rạch Cái
Tàu; rồi ở xã Hội An, huyện Chợ Mới, tỉnh
An Giang có chợ Cái Tàu Thượng; còn ở
huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp lại có
Thị trấn Cái Tàu Hạ nữa…
Mỗi địa danh có chữ “cái” đó
đều có mồ hôi, nước mắt, xương máu… của cha ông. Cũng theo nhà thơ, có những
chữ “Cái” gắn lền với chiến công, sự kiện lịch sử, danh nhân của đất nước. Như Cái
Nhum, huyện Mang Thít, tỉnh Vĩnh
Long là nơi đã xảy ra những trận đánh
giữa quân Tây Sơn với quân Nguyễn Ánh cùng quân Xiêm La, cuối cùng trận đánh
kết thúc tại Rạch Gầm – Xoài Mút mà quân Tây Sơn đại thắng. Cái
Nhum còn là quê hương của Thánh Tử Ðạo (Á thánh Lựu) và cũng là nơi chôn thi hài của Á
thánh Phillipe Phan Văn Minh. Cái
Bông thuộc huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre là nơi sinh cụ Phan Thanh Giản. Cái
Mơn thuộc huyện Chợ Lách, tỉnh Bến Tre là nơi sinh ra nhà bác học Trương Vĩnh Ký, người biết trên 20 thứ tiếng và là thông dịch viên cho phái đoàn Phan Thanh
Giản đi sứ sang Pháp (1863). Cái Ða Trại thuộc xã Hưng Lễ, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre là nơi đánh dấu bước chân của Nguyễn Ánh
trốn chạy quân Tây Sơn, gần đó là Cái Mít là nơi Nguyễn Ánh tá túc một thời gian. Ở huyện
Đầm Dơi, tỉnh Cà Mâu có Cái Keo nổi danh nghề dệt chiếu là nguồn cảm hứng cho soạn giả
Viễn Châu viết bài cải lương nổi tiếng:
“Tình
Anh Bán Chiếu”. Cái Dầy ở Bạc Liêu là nơi
sinh ra cũng là nơi an táng của chàng công tử nổi tiếng Nam bộ: Công Tử Bạc Liêu. Cái
Vồn ở huyện Bình Minh tỉnh Vĩnh
Long là nơi đặt bản doanh quân
đội Hòa Hảo của tướng Trần Văn Soái …
Cuộc du hành sáng tác thế là kết thúc bằng những
cái tên quen lạ trên quê hương thân yêu vừa du hành cả tuần lễ nay…
Trịnh Sơn
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét