|
Phác thảo bìa sách
"9 thập kỷ âm nhạc Việt Nam"
Lê Thiên Minh Khoa
(Tác giả tự trình bày) |
Trong hoàn
cảnh chiến tranh, ở vùng đô thị do thực dân Pháp chiếm đóng, tâm lý người dân
là chán ghét thực tại, tránh né thời cuộc, hướng về những gì cao đẹp, người
nhạc sĩ cũng là người nói hộ tâm tình đó. NS - PGS.TS Thế Bảo trong cuốn Lịch
sử âm nhạc Việt Nam (NXB
Thanh Niên - 2017) cho rằng: “dòng chảy
cơ bản của âm nhạc vùng tạm chiếm là trốn thực tại đau khổ vào tình yêu lứa
đôi, vào giấc mơ, vào lịch sử xa xưa, hình thành dòng nhạc trữ tình lãng mạn”. Ca khúc của họ là sự nối
tiếp dòng nhạc lãng mạn thời tiền chiến và sau nầy được xếp chung vào dòng nhạc
tiền chiến.
Giới sáng tác ca khúc ở vùng tạm chiếm lúc
nầy gồm hai nguồn: những nhạc sĩ ở lại thành, không vào chiến khu ngay từ đầu,
như: Lê Thương, Thẩm Oánh, Dương
Thiệu Tước…, hoặc đang tuổi thiếu niên như Cung Tiến, Lam Phương…, và những nhạc sĩ tham gia kháng chiến, rồi do
thời cuộc, do hoàn cảnh riêng, do bị Pháp bắt hoặc không chịu được gian khổ
kháng chiến đã bỏ về “tề” từ đầu thập niên năm 1950, như: Phạm Duy, Hùng Lân,
Đoàn Chuẩn, Hoàng Thi Thơ, Hoàng
Giác, Võ Đức Thu,…
Lực lượng sáng tác tuy đông, nhưng số lượng tác phẩm không nhiều. Một số
nhạc sĩ chựng lại, không viết nữa, một số đổi lại tựa đề ca khúc cũ hoặc sửa
chữa lại lời cho hợp vời hoàn cảnh mới ở vùng tạm chiếm rồi mới phổ biến. Như
Phạm Duy trong 4 năm chỉ viết được một ca khúc Đàn tôi lúc mới rời bỏ kháng chiến. Hoàng Giác viết Ngày
về (1946 - sau nầy làm ông chịu nhiều hệ lụy vì trở thành nhạc
hiệu cho chương trình chiêu hồi của VNCH) khi tham gia kháng chiến, sau “về thành”
Hà Nội đã viết Lỗi cung đàn, Quê
hương, Hương lúa đồng quê, Bóng ngày qua…" Một số khác viết
nhiều hơn, như Hùng Lân viết một loạt ca khúc: Một Mùa Xuân Huyền
Ảo, Vườn Xuân, Hận Trương Chi, Hè Về, Cô Gái Việt, Mùa Hợp Tấu, Ca Xuân Hẹn
Ước, Luống Cầy Mạch Sống, Nhớ Rừng, Sầu Lữ Thứ, Tơ Vương, Xóm Nghèo…
Đặc biệt,
Đoàn Chuẩn trở thành một hiện tượng âm nhạc thời đó khi từ chiến khu về Hà Nội
tung ra nhiều tình ca được viết trước đó và được công chúng thị thành nồng
nhiệt đón nhận: Ánh trăng mùa thu (1947 - ca khúc đầu tay), Tình
nghệ sĩ (1947), Đường về Việt Bắc (1948), Lá thư (1949). Sau đó, ông viết tiếp: Thu quyến rũ (1950), Chuyển
bến (1952), Gửi gió cho mây ngàn bay (1952), Cánh hoa duyên kiếp (hay "Dạ
lan hương" (1953), Lá đổ muôn chiều (1954). Cũng cần
phải kể thêm những tình ca cùng một phong cách ấy, giai điệu ấy, có nét
buồn, day dứt mà thanh cao, trang nhã, ông viết
trong năm 1955: Tà áo xanh (hay Dang
dở), Chiếc lá cuối cùng, Để có những chiều tắt nắng, Một gói nho khô, một
cánh pensée, Vàng
phai mấy lá (hay Vĩnh biệt), Gửi người em gái miền Nam…
Những tình khúc nầy được ký tên Đoàn Chuẩn - Từ Linh như một “thương hiệu” uy
tín và có ảnh hưởng sâu rộng đến dòng tình khúc miền Nam sau 1954.
Ở lại
thành từ đầu, Thẩm Oánh tiếp tục viết những ca khúc theo 2 dòng nhạc cũ: tình
ca và nhạc hùng như: “Việt Nam cùng tiến" đã được
dùng làm nhạc hiệu cho đài Pháp - Á ở Hà Nội và Sài Gòn, "Nhà Việt Nam",
"Trưng nữ vương", "Chu Văn An hành khúc”, "Xuân về", “Cô lái đò"…
Cũng vậy, từ những
năm cuối thập niên 1940, đầu thập niên
1950, Dương Thiệu Tước viết nhiều ca khúc lãng mạn: Đêm Tàn Bến Ngự (1946),
Kiếp
Hoa, Áng Mây Chiều, Nhạc Ngày Xanh, Dưới Nắng Hồng, Xuân Mới, Thiếu Niên Xuân
Khúc Ca, Thuyền Mơ...
Cung Tiến được xem như nhạc sĩ trẻ nhất có hai sáng tác đầu tay viết
theo dòng nhạc tiền chiến được phổ biến rộng: Hoài cảm (1952) viết lúc mới 14
tuổi, Thu vàng (1953) lúc 15 tuổi, nhưng được coi là hai tình khúc
bất hủ của tân nhạc Việt Nạm.
Còn Lê Thương, ngoài tình ca ra, nhạc sĩ tài hoa đa hệ nầy, “chuyển hệ”
viết các bản nhạc hài hước, trào phúng Hòa bình 48, Liên hiệp quốc, Làng báo Sài Gòn, Đốt hay không đốt… Ông
còn đặt lời cho những bản nhạc ngoại quốc ngắn như Nhớ Lào (nhạc Lào), Bông
hoa dại tức Ô
Đuồng Chăm Pá (nhạc Lào), Lòng trẻ trai (nhạc Hoa Kỳ), Hoa anh đào (tức Sakura -
nhạc cổ Nhật), Màn Brúc đánh giặc (dân
ca Pháp)... Lê Thương được xem như những nhạc
sĩ mở đầu của dòng nhạc dành cho thiếu nhi với những bản: Tuổi thơ, Cô bán bánh, Con
mèo trèo cây cau, Thằng bé tí non, Ông Nhang bà Nhang, Truyền
kỳ Việt sử, Học sinh hành khúc... Nổi tiếng hơn cả là
bài Thằng Cuội thường
được trẻ em hát trong mỗi dịp tết Trung Thu, được nhiều người
xem như đồng dao mà quên hẳn tên tác giả: Bóng trăng trắng ngà/Có cây đa to/
Có thằng Cuội già/ Ôm một mối mơ… Thời kỳ nầy,
ông có soạn một ca khúc rất nổi tiếng Lòng
mẹ Việt Nam (Bà Tư bán hàng) nói về một bà
mẹ thành phố có các con tham gia kháng chiến. Và bài hát đó là một trong những
lý do Lê Thương bị Pháp bắt giam vào khám
Catinat cùng Phạm Duy và Trần Văn Trạch năm 1951.
Đáng lưu ý
là năm 1949, Văn Phụng và Văn Khôi viết Trăng
sơn cước, tác phẩm điệu Rumba đầu tiên và
năm 1952, Lam Phương viết Chiều thu
ấy lúc mới 15 tuổi, Lưu Trọng Nguyễn viết Nắng chiều, hai nhạc phẩm điệu
bolero đầu tiên ra đời cùng năm. Giai điệu cả ba đều đơn giản, nhẹ nhàng được
coi như là ba ca khúc khai mở cho dòng nhạc vàng sau nầy.
Việc quảng
bá, trình diễn ca khúc trữ tình được chính quyền thực dân khuyến khích, tạo
điều kiện. Ở các thành phố lớn như Hà Nội, Huế, Sài Gòn…, chính quyền lập nhiều
ban nhạc: mỗi nơi đó đều có các ban nhạc của đài phát thanh khu vực, đoàn quân
nhạc của Bảo chính đoàn, của Tiểu đoàn danh dự. Riêng ở Sài Gòn có thêm ban
nhạc của đài phát thanh Pháp Á với một dàn nhạc “hoành tráng” và một lực lượng
biên tập, nhạc sĩ, nhạc công, ca sĩ hùng hậu. Các phòng trà, quán bar có nhóm
nhạc nhẹ, nhạc khiêu vũ vô cùng nhộn nhịp với nam thanh nữ tú dập dìu trong
những bản tình ca lãng mạn, lãng quên thời cuộc.
Lúc nầy ở các thành phố lớn có những ca sĩ chuyên nghiệp nổi tiếng: ở Sài Gòn,
có Thu Hồ, Minh Diệu, Mạnh Phát, Châu Kỳ, Tôn Thất Sở...,
ở Hà Nội cũng nhiều nhưng được mến mộ nhất là tài tử Ngọc Bảo.
Ở giai đoạn nầy, Pháp cũng đẻ ra một loại nhạc tâm lý chiến chống Việt
Minh, nhưng rất gầy guộc và èo uột, do chính nghĩa sáng ngời tỏa ra từ cuộc đấu
tranh giải phóng, nhân dân ở thành lòng hướng về phía chính nghĩa, còn các nhạc
sĩ tài năng hoặc đã đi theo chính nghĩa hoặc “trùm chăn” viết tình ca, né tránh
chuyện chính trị, thế thời.
Lê Thiên Minh Khoa
(Trích trong cuốn sách “9
THẬP KỶ CA KHÚC TÂN NHẠC VIỆT NAM” - nghiên cứu, & nhận định của Lê
Thiên Minh Khoa - sắp xuất
bản, 2018).
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét