Tôi
lên Đà Lạt vào những ngày giáp Tết. Vẫn còn nguyên không khí se lạnh và phảng
phất mùi thơm của những cánh hoa dã quỳ vàng rực mọc quanh những hàng rào dọc theo
các căn nhà cửa đóng im ỉm. Thành phố buổi chiều như chìm vào trong sương và
tôi cứ quẩn quanh đi tìm nhà dì Hạnh, người phụ nữ đã có lần đi vào cuộc đời
của ba tôi rồi sau khi ba mất, vẫn ở vậy nuôi con, thờ chồng. Là tôi cũng chỉ
nghe mẹ nói thế! Tự ái của người đàn bà có thời xem dì Hạnh như tình địch đã
ngăn không cho mẹ tôi gặp dì dù thời gian đã tròm trèm hai mươi năm.
Tôi
chỉ biết là dì Hạnh đẹp lắm! Không biết bao nhiêu người đàn ông ở thành phố hoa
vàng nầy ngấp nghé xin cưới dì làm vợ nhưng hình như trái tim dì đã đóng chặt
từ ngày ba tôi mất. Đứa con trai là kết quả của những ngày yêu nhau say đắm của
dì và ba tôi, lúc bây giờ còn là tổ trưởng tổ trinh sát nội thành Đà Lạt.
Chuyện có hơi dài vì mối tình của Dì và ba tôi đã âm i từ nhiều năm, trước lúc
ba tôi vào chiến trường, khi hai người còn học chung ở trường đại học. Đến khi
ba tôi thoát ly ra căn cứ hoạt động thì hai người chia tay. Ba tôi lấy vợ vì
chìu ý nội trước khi vào cứ để nội tôi yên lòng có cháu ẵm bồng và mẹ sinh ra
tôi. Dì đau đớn nhưng lặng thinh chịu đựng. Rồi sau đó, không biết lý do gì, dì
lại gặp ba tôi, đâu như hồi Mậu Thân, lúc đơn vị ba tôi được lệnh vào thành phố
nhưng bị đánh bật ra phải tá túc ở nhà dì lánh nạn. Dung ruổi thế nào, họ lại
nối tình xưa trong những ngày chiến tranh ác liệt gõ cửa đến từng nhà. Có lẽ
hai người hiểu rằng khó lòng gặp được nhau nữa nên mới quyết định sống với nhau
và đứa con trai ra đời. Quả thật, sau đó ba tôi hy sinh. Dì Hạnh vẫn ở vậy trên
một ngôi nhà nhỏ nơi xứ Đà Lạt sương mù cùng đứa con trai năm nay cũng tròm
trèm tuổi tôi: hai mươi… Chuyến đi của tôi lên đây tìm dì cũng bắt nguồn từ cái
chết của ba tôi, cái chết đến bây giờ vẫn chưa tìm ra manh mối…
Sự
việc bắt đầu từ lúc bên Sở lao động thương binh chuyển hồ sơ liệt sĩ của ba tôi
đi xác minh có thật ba tôi hy sinh trong lúc làm nhiệm vụ hay không. Khi đó ba
tôi là tổ trưởng trinh sát nội tuyến ở Đơn Dương, Đà Lạt. Chuyện cũng sẽ dừng
lại ở đó vì nhiều đồng đội của ba tôi hãy còn sống. Họ có thể xác nhận rằng ba
tôi hy sinh trong lúc tiếp cận vẽ sơ đồ một chi khu của địch ven ngoại ô thành
phố Đà Lạt. Nhưng có một số người lại cho rằng việc ba tôi mất không liên quan
gì đến chuyến đi trinh sát định mệnh ấy mà là do hàng địch rồi bị thủ tiêu. Và
cái thủ tục hành chánh rùa bò, quan liêu trong những năm sau hoà bình, hồ sơ
liệt sĩ của ba tôi bị găm lại, chuyển hết nơi nầy đến nơi khác vẫn chưa có kết
luận nào cụ thể. Cái chính không phải nằm ở chỗ nhận phần tử tuất ít ỏi từ sổ
liệt sĩ của ba mà là nỗi đau của nội, của mẹ và tôi, đứa con gái ruột thịt ra
đời chỉ thấy mặt ba mình trên ảnh cho đến khi nghe tin ba mất. Hồ sơ, giấy tờ
đi học của tôi vẫn còn trống ở chỗ con liệt sĩ không biết khi nào mới lấp đầy,
bao nhiêu rắc rối nhiêu khê từ đây.
Có
thật ba tôi hy sinh hay trong một phút
yếu lòng nào đó đã phản bội lý tưởng của mình, ra hàng rồi bị địch thủ tiêu?
Không ai biết điều đó! Một lần nhận nhiệm vụ ra đi rồi không về nữa, xác cũng
không tìm thấy. Đơn vị hồi đó cử người đi dò hỏi, chỉ biết ba rời khỏi tổ ba
người sau khi hoàn thành công việc ở nội thành rồi sau đó mất tích. Hai người đồng
đội kia sau đó cũng hy sinh nên sự mất
tích của ba vẫn trong vòng bí ẩn. Ba tôi về đâu và cớ gì lại không tìm lại đơn
vị nếu ông còn sống? Nội tôi cứ như người mộng du, tuổi già vẫn không yên,
nhiều đêm trằn trọc không ngủ được vì câu hỏi bỏ ngõ nầy. Gia đình nội có
truyền thống cách mạng, làng trên xóm dưới ai cũng biết và trọng vọng. Vậy rồi
đùng một cái, nghe tin ba tôi bị giết vì ra hàng địch. hỏi làm sao không hụt
hẫng, đớn đau. Ngay cả những người thân trong gia đình tôi cũng tin rằng lời
đồn đãi là có thật! Thiếu gì người trong chiến tranh, không chịu nổi cảnh chết
chóc, ác liệt đành ra hàng địch nhưng sau đó bị chúng lừa, thủ tiêu mất xác
luôn, họ nói vậy để an ủi nội tôi. Có biết đâu những lời an ủi đó lại càng làm
cho vết thương lòng của nội tấy lên, nhức buốt. Còn mẹ tôi! Bà không nói gì,
chỉ thỉnh thoảng thở dài… Nước mắt của bà giờ như chảy ngược vào trong. Mang
tiếng vợ liệt sĩ mà chẳng nhận được một đền bù nào xứng đáng, lại còn nghe
tiếng đời cạnh khoé, chua ngoa, hỏi làm sao không uất, không nghẹn…
Rồi
nghe chỉ dẫn của một người bạn chiến đấu một thời của ba, mẹ bảo tôi đi tìm Dì
Hạnh. Chỉ Dì là biết đích xác ba mất trong trường hợp nào, mẹ nói vậy. Là vì mẹ
biết ba tôi yêu thương Dì Hạnh lắm. Đám cưới với mẹ chỉ làm vừa lòng nội tôi
trước lúc vào cứ. Ba không hề yêu mẹ, chỉ gặp nhau đâu vài lần, chưa có kỷ niệm
nào đáng nhớ. Còn Dì Hạnh thì khác! Năm sáu năm trời học chung với ba, giữa hai
người có biết bao điều gắn bó. Mẹ tôi tin rằng ba có đến nhà dì khi làm xong
nhiệm vụ trong thành phố. Cũng chỉ là phỏng đoán vậy thôi nhưng nhìn vào mắt
mẹ, tôi hiểu điều lớn hơn mẹ muốn nói: khi yêu nhau, người ta có thể hy sinh về
nhau, bất cứ lúc nào…
oOo
Loanh
quanh mãi, cuối cùng tôi cũng tìm đến được nhà dì Hạnh ở thành phố không lấy gì
rộng và đầy sương. Mở chiếc cổng rào bằng tre ọp ẹp, chung quanh có những đoá
dã quỳ vàng rực là một phụ nữ luống tuổi, nếp nhăn đã hằn sâu trên đưôi mắt
nhưng vẫn còn đẹp một cách kỳ lạ. Người đàn bà mở to mắt và chợt kêu lên thảng
thốt khi nhận ra tôi là con gái của ba. Gương mặt bà như bừng sáng lấp lánh,
hai cánh tay run lên và đôi môi giần giật tỏ vẻ xúc động lắm. Không ngờ cháu
lại đến tận đây, dì mừng quá. Người đàn bà vừa hấp tấp mở cửa cho tôi vừa nghẹn
lời và trên đôi mắt đã thấy ngấn lệ. Tôi lặng nhìn theo cái dáng thon thả và
yếu đuối của bà, bất giác nghĩ về mẹ tôi. Quả ba tôi có cặp mắt tinh đời. Cả
hai người đàn bà ba yêu đều đẹp, đều tha thiết yêu ba. Dù sao, tôi cũng không
còn cái cảm giác trẻ con để không thích bất kỳ ai là mẹ kế của mình. Tôi là phụ
nữ, tôi hiểu trái tim của họ. Người đàn bà nào cũng chỉ muốn trong lòng người
đàn ông họ yêu duy nhất hình bóng của mình. Thương cho mẹ tôi những ngày vắng
ba. Nỗi đau về sự cách xa thì ít mà lòng quặn thắt về trái tim ba đã có người
khác thì nhiều. Mẹ tôi thường ôm tôi vào những buổi tối, cứ thầm thì câu hát: Chiều chiều bóng ngã về tây… nghe buồn não nuột…
Ngôi
nhà có vẻ lạnh lẽo, dù nhỏ nhưng dễ thương. Treo trên chiếc bàn thờ giữa nhà là
di ảnh của ba tôi, bên cạnh chưng lọ hoa mà trong đó là từng chùm dã quỳ vàng
đến nhức mắt. Dì Hạnh ngồi đối diện tôi, thầm thì:
-
Cháu tên Huyên, phải không? Có lần ba cháu có nói với dì về người vợ trước và
cháu. Không sao, cháu đừng ngại! Dì nói nhỏ nhẹ khi tôi đứng lên xin phép thắp
cho ba mình nén nhang. Ba cháu đã đúng khi nói rằng cháu rất xinh đẹp… Chỉ tiếc
rằng ông không còn sống để nhìn thấy đứa con gái của mình…
- Cả đứa con trai của ba nữa chứ! Tôi mĩm cười nói. Mẹ
cháu vẫn thường nhắc đến dì. Bà cũng chưa bao giờ biết mặt dì và đứa con trai
của ba. Mẹ bảo có dịp nhất định sẽ ghé thăm. Dù sao, chúng ta cũng như một nhà,
phải không dì?
Dì Hạnh gật đầu thay cho câu trả lời. Từ đuôi mắt đẹp của
dì phảng phất nét rạng rỡ, trông bớt héo úa. Chúng tôi bắt đầu câu chuyện có vẻ
dễ chịu hơn và thỉnh thoảng dì mĩm cười, nụ cười buồn mà tôi hay bắt gặp trong
tranh của những hoạ sĩ Ý thời Phục hưng.
- Ba cháu đã là một phần đời của dì! Hai mươi năm trôi
qua mà dì không có cảm giác thời gian nầy là dài lắm. Kể cũng lạ, lạ hơn nữa là
dì cảm thấy không thể yêu ai được nữa ngoài ba cháu kể từ sau cái chết của ông
ấy. Niềm hy vọng duy nhất của dì là thằng Huy, nó chắc sắp về tới. Dù sao, nó
cũng là em cháu, đứa em cùng cha khác mẹ… Dì mong hai đứa sẽ nhận ra nhau, cảm
thông nhau để vong linh ba cháu đỡ buồn tủi… Giọng Dì như gió thoảng, ngậm
ngùi.
Tôi không biết phải nói gì thêm, rơm rớm nước mắt. Định
mệnh, tin hay không tin, tôi hiểu, đã sắp đặt cả. Ba người đàn bà, kể cả tôi
đành cuốn theo dòng chảy của nó. Phải thương người mình không thương, cay
nghiệt lắm chứ. Nhưng làm sao khác được! Dì Hạnh, cả Huy nữa, dù sao, cũng là
một phần đời ba tôi … Mà ba thì đã không còn…
Cuối cùng thì tôi cũng nói ý định mình đến thăm dì: tìm
nguyên nhân cái chết của ba tôi. Tôi không rào đón:
-
Thật tình, đến bây giờ nhiều người vẫn chưa rõ về cái chết của ba cháu, kể
cả những người thân. Tôi nói sau khi kể cho dì Hạnh nghe những rắc rối nhiêu
khê từ những lời đồn đãi, đàm tiếu từ lúc ba tôi mất tích trong chiến dịch Mậu
Thân. Cả phần học tập, công tác của cháu cũng gặp không ít khó khăn. Thật ra là
ba cháu mất trong trường hợp nào? Dì có
biết không?
Trong không gian lạnh lẽo của buổi chiều sắp tàn, không
trả lời tôi, dì Hạnh đứng lên khép chiếc cửa sổ đóng hờ và đứng nhìn hồi lâu
những đoá dã quỳ vàng giờ đã dịu sắc thắm. Như không nghe tôi nói, không nhìn
thấy tôi, dì cứ đứng lặng im như thế. Hệt một bức tượng cô đơn, quạnh quẽ đến
nao lòng! Và sau đó, cố nén tiếng thở dài, dì như lẩm bẩm một mình:
- Tôi biết sẽ có lúc phải nói lên điều nầy nhưng không
ngờ là hôm nay, bây giờ! Cháu Huyên, dù sao thì người đầu tiên dì nói về cái
chết của ba cháu là cháu. Nó cũng làm dì
nguôi ngoai với vong linh người đàn ông mà dì yêu thương hơn bất cứ điều
gì trên đời… Vâng! Dì biết và chứng kiến cái chết của ba cháu…
Tôi ngồi im lặng bởi biết đây là thời khắc thiêng liêng
nhất trong đời mình. Cái màn bí ẩn về cái chết của ba tôi cuối cùng cũng hé mở.
Cả không gian lặng lẽ đến mức nghe cả tiếng gió thổi rì rào quanh ngôi nhà và
những đoá dã quỳ rung rinh trong gió.
- Tết Mậu Thân năm 68, dì Hạnh nói khó nhọc, ba cháu nhận
lệnh đưa tổ trinh sát từ Đơn Dương vào thành phố. Mấy ngày sau, khi đã hoàn
thành nhiệm vụ trinh sát và chuẩn bị rút lui thì thay vì cùng đồng đội ra về,
ba cháu lại ghé đây, tại ngôi nhà nầy với dì. Không biết cái mãnh lực ghê gớm
nào đã xui ông ấy làm một việc tưởng chừng không thể. Vượt qua bao nhiêu là đồn
bót, đối chọi biết bao hiểm nguy, cầm chắc bị phát hiện vì thời gian nầy, bọn
địch đã hay tin tiến công của cách mạng. Khó hơn nữa, ông bỏ cả đồng đội để một
mình về đây với dì là chấp nhận mọi rủi ro, mọi nghi ngờ. Có lẽ một mình dì
hiểu vì sao. Đó chỉ duy nhất là tiếng gọi của tình yêu. Khi tình yêu lên tiếng
thì không ai cưỡng được lòng mình, phải không cháu… Và sau đó…
Nói đến đây dì Hạnh như nghẹn lời, rấm rứt khóc. Tôi biết
dì đang trong cơn xúc động dữ dội. Nhìn cánh tay run rẩy, đôi bờ vai rung lên
và nhịp thở gấp gáp, tự nhiên tôi thương dì quá. Tình thương mà mới cách đây
chỉ vài tiếng đồng hồ khi mới đặt chân vào nhà dì còn một chút gì đó là đắn đo,
ích kỷ giờ đã trôi tuột trong suy nghĩ của tôi. Tình yêu! Sự nhiệm mầu của nó
chỉ có người trong cuộc mới hiểu, không thể nói cùng ai, không ngôn ngữ nào
diễn đạt được!
Tiếng của dì thầm thì như loãng vào tiếng gió khi nói câu
sau cùng cất lên mà tôi cố phải dựa sát
vào người dì để nghe cho rõ:
-
Sau đó thì ba cháu ở lại đây với dì. Chỉ hai đêm! Hai đêm hạnh phúc nhất trong
đời người đàn bà mà dì đã có. Chính hai đêm đó đã tạo nên thằng Huy và đó là
tất cả những gì ba cháu để lại. Ông ấy định về cứ theo đơn vị vào ngày thứ ba
nhưng rồi …. Ngay đêm hôm ấy bọn lính xét nhà. Bằng mọi cách dì che dấu ba cháu
nhưng không được. Cuối cùng bọn chúng cũng biết ba cháu là ai… Rồi mặc cho bao
lời van xin, lạy lục của dì, chúng vẫn bắt ba cháu đi cùng chúng. Nhưng chỉ ra
mới đến cổng, chỗ những đám quỳ vàng mà cháu thấy đó, dì nghe tiếng súng nổ.
Khi chạy ra thì nhìn thấy xác ba cháu nằm bất động, máu thắm đỏ cả hàng rào hoa
quỳ trước ngõ…
Kể
đến đây, Dì Hạnh như quỵ hẳn xuống. Tôi cố đỡ tấm thân mềm nhũn của Dì lên ghế
và lấy dầu nóng xức khắp người cho Dì tỉnh lại. May sao, đúng lúc ấy Huy về.
Thoạt nhìn, Huy giống ba tôi như đúc.
Cái dáng cao lênh khênh, đôi mày rậm, chiếc cằm vuông…
Tôi
kể cho Huy nghe về những chuyện đã xảy ra và đẫm nước mắt ôm đứa em trai cùng
cha vào lòng. Ngước nhìn lên, tôi nghe môi mình mặn chát. Hình như Huy cũng
khóc! Những giọt nước mắt đàn ông lần đầu tiên rơi lả chả trên mặt mũi, trên
vai tôi…
oOo
…Chiều
hôm sau, trong cái lạnh sắt se của phố núi cao nguyên và sắc màu vàng rực của
những đoá dã quỳ, có ba người lặng lẽ đi dọc theo con đường dẫn ra nghĩa trang
thành phố. Một thiếu phụ và đôi trai gái trạc tuổi hai mươi. Họ đến một ngôi mộ
gần cuối nghĩa trang và thành kính thắp nhang khấn vái, đặt trên mộ người đã khuất
những đoá dã quỳ vàng rực... Người đàn ông trong ảnh như nhìn họ, mĩm cười.
Người đàn ông có đôi mày rậm và chiếc cằm vuông…
Nguyễn Minh
Phúc
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét