- Trang chủ
- |
- Giới thiệu
- |
- Quy ước
- |
- Tác giả
- |
- Thư ngỏ
- |
- Lá thư Bông Tràm
Tác phẩm kỷ niệm 10 năm hoạt động của Bông Tràm, có sự góp mặt của 50 tác giả với trên 100 tác phẩm. Sách dày 312 trang, khổ 13 x 19 cm, giá 100.000 đồng.
![]() |
Khu du lịch Núi Sập |
Đi tìm huyền thoại trong lòng đất
Nằm bên núi Ba Thê thuộc thị trấn Óc Eo, chùa Linh Sơn được ví von là “bảo tàng văn hóa Óc Eo đầu tiên” của An Giang. Đầu thế kỷ XX, người dân địa phương đã tìm thấy hai tấm bia đá lớn có khắc nhiều chữ cổ và bức tượng bốn tay làm bằng đá dưới chân núi Ba Thê. Pho tượng được mang đến thờ ở chùa Linh Sơn và hai tấm bia đá cũng được gắn hai bên tượng.
Thực chất, pho tượng vốn là tượng thần Vishnu của đạo Bàlamôn, có rắn Naga bảy đầu hợp thành tán che bên trên. Ban đầu tượng ở tư thế đứng và có màu sắc nguyên thủy của đá cổ, người Việt không hiểu rõ đã “cải biên” thành tượng Phật bằng cách đắp phần chân tượng tạo thành tư thế ngồi kiết già, đồng thời sơn màu lên thân tượng, làm mất đi không ít giá trị nghệ thuật. Hai tấm bia đá đến nay vẫn còn nguyên vẹn nhưng chữ đã mờ, chữ trên bia rất có thể là chữ của người Phù Nam xưa.
Phù Nam là một đế quốc mang màu sắc thần quyền, tồn tại khoảng thế kỷ I - VII tại vùng hạ lưu sông Mekong, bao gồm cả Nam Bộ Việt Nam và Cambodia ngày nay. Người Phù Nam có nền văn hóa chịu ảnh hưởng từ văn hóa Ấn Độ, chữ viết có nguồn gốc từ chữ Phạn, tôn giáo chủ yếu là Bàlamôn và đạo Phật. Trong thời gian Phù Nam tồn tại, Óc Eo là một hải cảng sầm uất, đóng vai trò quan trọng về nhiều mặt.
Thập niên 1940, nhà khảo cổ Louis Malleret (Pháp) đã khai quật vùng Ba Thê - Óc Eo và phát hiện nền móng của các công trình kiến trúc không có mái ngói. Bên cạnh đó, ông còn tìm được nhiều hạt cườm, mảnh vàng, đồ trang sức… được chế tác tinh xảo. Ông đã đề xuất đặt tên cho văn hóa khảo cổ nầy là Óc Eo. Sau đó, giới sử học nước ta cũng đã tổ chức nhiều đợt khai quật. Kết quả thu được là phát hiện những kiến trúc cung đình và tôn giáo được xây dựng rất sớm. Theo các nhà nghiên cứu, đô thị cổ Óc Eo có diện tích rất lớn với hai khu vực chính: nội thành là nơi ở của quý tộc, quan lại, binh lính, đạo sĩ, thương gia… và ngoại thành là nơi ở của dân thường.
Lang thang núi Ba Thê
Ba Thê là ngọn núi còn nhiều nét hoang sơ, ít có sự tác động của con người, nên ngày nay được đông đảo du khách tìm đến. Núi có tên chữ là Hoa Thê sơn, cao 221 mét, chu vi khoảng 4220 mét. Đường lên đỉnh núi khoảng 2 km, được tráng nhựa nên xe có thể chạy lên dễ dàng. Con đường uốn lượn quanh co giữa cây rừng nầy được làm từ thời Pháp thuộc cho mục đích quân sự, hiện nay được tái thiết hoàn chỉnh để phục vụ du lịch. Từ từ chạy xe lên dốc núi, những bóng cây rợp mát, gió từ đồng bằng thổi lên hiu hiu, sẽ tạo cho du khách sự thích thú.
Trên đỉnh núi có chùa Sơn Tiên được xây dựng năm 1933 giữa khung cảnh tĩnh lặng, thâm nghiêm. Cạnh chùa, một tảng đá có khoảng lõm vào trông giống như dấu vết của một bàn chân khổng lồ, được dân gian gọi là “bàn chân tiên” vì cho rằng đo là dấu chân của vị tiên nhân nào đó để lại. Đứng từ đỉnh núi, bạn có thể phóng tầm mắt quan sát vùng tứ giác Long Xuyên bên dưới, dãy Thất Sơn hùng vĩ ở xa, và bên kia là biển Tây mờ mờ trong nắng.
Từ đỉnh núi xuống, gặp ngã ba giữa đoạn đường, bạn có thể rẽ sang tham quan Thạch Đại Đao và chót Ông Tà. Thạch Đại Đao là tảng đá với hình dáng như cây đao khổng lồ. Theo lời kể dân gian, vào một đêm mưa to gió lớn, có một tiếng nổ kinh hoàng phát ra trên núi Ba Thê. Sáng hôm sau, người dân phát hiện tảng đá kỳ lạ nầy rồi ùn ùn rủ nhau lên núi xem, thêu dệt nên hàng loạt chuyện thần bí. Sau nầy, người ta dựng tảng đá trên núi Ba Thê, xây thêm mái che để tạo điểm tham quan cho khách du lịch.
Từ Thạch Đại Đao, chúng ta tiếp tục lên viếng chót Ông Tà gần đó. Ông Tà là cách gọi của người Việt dành cho Neak Ta - vị thần bảo hộ trong tín ngưỡng dân gian của người Khmer. Qua quá trình cận cư dẫn đến giao thoa văn hóa, người Việt tiếp nhận và tôn thờ vị thần nầy khắp miền Nam. Khi thờ phượng, ông Tà thường được tượng trưng bằng một viên đá cuội lớn. Ở núi Ba Thê, ông Tà được tạc tượng, thờ trên tảng đá cao.
Xuống núi, bạn có thể đến viếng đình thần Phan Thanh Giản nằm dưới chân núi, đơn sơ mà uy nghiêm giữa vườn cây xanh mát. Nhân dân làng Vọng Thê xưa đã trân trọng tôn thờ Hiệp biện Đại học sĩ để tỏ lòng tưởng nhớ. Ngoại thất đình được thiết kế bình dị, nóc lợp ngói đỏ, trang trí tượng lưỡng long triều nhật. Chánh điện tôn nghiêm mà ấm cúng, điểm nhấn ở trung tâm là bức tượng Phan Thanh Giản với vẻ mặt phúc hậu nhưng vẫn phảng phất chút ưu tư. Đây là một trong số ít những ngôi đình thờ Phan Thanh Giản ở Nam Bộ.
Nét đẹp tên đất tên người
Đến với Thoại Sơn, nhiều du khách thích thú khi dừng chân tham quan hồ Ông Thoại và núi Sập. Núi Sập có độ cao 85 mét với chu vi 3800 mét, dân gian kể rằng núi xưa kia có hình con thỏ nằm giữa cánh đồng bát ngát. Hiện vẫn chưa có nguồn tư liệu nào giải thích rõ ràng về tên gọi núi Sập. Sau nầy núi được vua ban tên là Thoại Sơn để ghi công Thoại Ngọc Hầu trong việc đào kinh Thoại Hà.
Sau thời gian dài là nơi khai thác đá, núi Sập ngày càng nhỏ dần. Không thể để mất di tích mang tên vị danh thần, tỉnh An Giang bãi bỏ việc khai đá. Song, quá trình khai thác vô tình tạo nên những hang sâu và sau đó chúng trở thành lợi thế để địa phương đầu tư phục vụ du lịch. Ngày nay, khu du lịch Hồ Ông Thoại rộng khoảng 9 ha. Nước được dẫn vào các hố khai thác đá tạo thành các hồ nhân tạo. Xung quanh hồ còn có các khối đá hình thù kỳ lạ. Không ai có thể nghĩ những dấu vết còn sót lại của việc khai thác đá đã vô tình biến thành các “đảo đá” nhô lên trên mặt hồ, làm tăng thêm vẻ đẹp cho khu du lịch. Đặc biệt, trung tâm của hồ là tượng Thoại Ngọc Hầu cao 10 mét do tỉnh Quảng Nam - quê hương ông gửi tặng huyện Thoại Sơn.
Sau khi dạo quanh hồ, chúng ta có thể thư thả lên núi Sập để hóng mát, ngắm cảnh, viếng chùa… Đường lên núi được xây bậc thang dễ đi, bạn sẽ có dịp dừng chân tham quan những chùa miếu trải dọc theo triền núi, đặc biệt trên đỉnh có chùa Duyên Phước với kiến trúc đẹp mắt. Ngoài ra, du khách cũng có thể đi xe bằng con đường bê tông vòng theo sườn núi.
Nằm bên triền núi Sập có đình thần Thoại Ngọc Hầu được bao bọc bởi vườn cây xanh thoáng mát. Sử sách ghi lại vào năm 1818, Thoại Ngọc Hầu vâng lệnh triều đình trực tiếp chỉ huy công tác đào kinh Ba Rạch. Kinh nầy nối Đông Xuyên (Long Xuyên) với Giá Khê (Rạch Giá) dài hơn 30 km, trở thành công trình thoát lũ đầu tiên ở miền Tây dưới triều Nguyễn. Khi công việc hoàn tất, để ghi công Thoại Ngọc Hầu, vua ban tên cho dòng kinh là Thoại Hà, bên cạnh kinh có núi Sập cũng được tứ danh là Thoại Sơn.
Để ghi lại niềm vinh dự nầy, Thoại Ngọc Hầu cho soạn một bài văn khắc vào bia đá kể lại quá trình đào kinh và việc ban tên. Đồng thời ông cho lập miếu Sơn Thần trên triền núi Sập để dựng bia kỷ niệm, khánh thành năm 1822. Ngôi miếu Sơn Thần sau nầy được nhân dân đổi thành đình thần Thoại Ngọc Hầu để thờ phượng đức công thần. Bia Thoại Sơn vẫn còn được trân tàng trong đình và được các nhà nghiên cứu nhận định là một trong những bìa đá cổ còn nguyên vẹn và có giá trị mỹ thuật cao so với những bia đá khác trong cả nước. Các chữ trên bia vẫn còn sắc nét vì được lưu giữ trong đình nên không bị thời tiết bào mòn.
Vĩnh Thông
© Tác giả giữ bản quyền. Vui lòng ghi rõ nguồn Bông Tràm khi sử dụng lại nội dung này.
|
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét