- Trang chủ
- |
- Giới thiệu
- |
- Quy ước
- |
- Tác giả
- |
- Thư ngỏ
- |
- Lá thư Bông Tràm
Tác phẩm kỷ niệm 10 năm hoạt động của Bông Tràm, có sự góp mặt của 50 tác giả với trên 100 tác phẩm. Sách dày 312 trang, khổ 13 x 19 cm, giá 100.000 đồng.
Đêm nay phố núi lại mưa dầm. Mưa từ trưa đến
chín, mười giờ vẫn chưa chịu tạnh. Ăn qua loa bữa cơm tối, chẳng muốn đi
đâu khi trời tầm tã, khi xã hội đang cách ly, hạn chế ra đường. Không biết
làm gì để tìm quên thời gian dư thừa, anh đành cuộn mình trong chăn, mở điện
thoại, cắm tai phone nghe nhạc. Giai điệu “Tháng sáu trời mưa, trời mưa không dứt”.
Lời thơ của Nguyên Sa được nhạc sĩ Hoàng Thanh Tâm phổ, qua giọng hát của
ca sĩ Khánh Hà cứ rót vào lòng anh nỗi buồn mênh mang, da diết. Ca
từ gợi nhớ trong anh một cuộc tình đổ vỡ như những hạt mưa tan tác
dưới thềm quá khứ. Đã mấy lần mưa tháng sáu rồi nhỉ? Người con gái cùng
trường xưa thân yêu có mái tóc dài xanh như dòng suối, lúc nào cũng thơm
hương bồ kết, hương bưởi, hương chanh, đẹp như hoa đồng cỏ nội ngỡ của riêng
mình giờ đã rời xa với lý do gia đình không chấp thuận cuộc tình
hai đứa, để rồi ngả lòng vào một duyên mới giàu có cao
sang. Nhiều lúc suy ngẫm thân phận, anh chẳng dám trách gì người con gái ấy
khi biết mình hàn vi, gia tài chỉ đôi bàn tay trắng thì làm sao lo nổi cho em.
Đang thả hồn mơ màng theo giai điệu bổng trầm của “mưa tháng sáu”, bỗng anh giật mình. Dường như có tiếng khóc trẻ thơ. Đúng rồi! Có cả tiếng ru nho nhỏ của người mẹ nữa. Lời ru quê kiểng… “Ngó lên Hòn kẽm đá dừng, thương cha, nhớ mẹ quá chừng lắm bậu ơi…”. Tiếng ru chừng nấc nghẹn, như sợ thoát ra ngoài sẽ làm phiền đến giấc ngủ của người chung quanh. Tiếng ru trong đêm mưa nghe não lòng cả ngàn lần “mưa tháng sáu” anh đang nghe. Lời ru u uẩn, thâm trầm của giọng Quảng mộc mạc hiền như dòng sông Thu mê man chảy vào đêm vắng lạnh lùng như đứt từng khúc ruột. Cầm lòng không đặng, anh ngồi dậy bật đèn, đến mở cửa nhìn ra. Đường phố đã vắng tanh người. Mưa vẫn rơi nặng hạt, từng cơn gió tạt qua thềm lạnh buốt. Bên góc hiên, một người phụ nữ ngồi co ro ẵm con đang cố dỗ nín. Thấy chủ nhà mở cửa, chị quýnh quíu xin lỗi đã làm phiền. Anh bước lại bên chị ân cần mời vô nhà. Lúc đầu chị e ngại chối từ nhưng anh cứ khẩn thiết mãi, nhìn con khóc và ho khục khặc suốt nên chị đành lòng đứng dậy, cầm gói hành lý bước theo. Nhìn con bé gầy nhom chắc đói, cảm lạnh đang run rẩy. Gương mặt người thiếu phụ cũng xanh xao, hốc hác, tự nhiên anh ái ngại, xốn xang. Anh biết cả hai đang đói, lạnh, chứ chẳng phải covid, cô vy gì cả!
Bước lại tủ đựng thức ăn, pha hai cốc sữa anh mang đến ân cần mời chị. Đợi hai mẹ con người thiếu phụ uống xong, anh mới hỏi han chị đi đâu trong đêm hôm khuya khoắt? Sao không tìm nhà trọ mà nghỉ qua đêm? Chị thật tình bảo mình đi vô thăm chồng, vừa xuống xe, do sơ ý lúc lấn chen nên bị mất cắp hết tiền bạc kể cả chiếc điện thoại, nên đành nấp tạm hiên chờ mai sáng. Nghe giọng, biết chị là đồng hương, chắc cùng quê kiểng, lòng anh thầm vui gặp lại người cùng xứ sở.
Anh bảo chị hãy an tâm vào nhà nghỉ, có gì mai
tính. Chị ý tứ nhìn căn phòng nhỏ, thầm nghĩ: Chắc vợ con anh đang ngủ
sau bức màn che, nên rụt rè trải tấm áo xuống góc nền nhà. Thấy vậy, anh đến
vén tấm màn bảo hai mẹ con nên vào đó nằm nghỉ.
- Thôi! Để chị và các cháu ngủ, cho em ngồi đấy
là quý lắm rồi. Thiếu phụ ngượng ngùng nói. Biết người phụ nữ nghĩ gì rồi, anh
mỉm cười nói như thật:
- Chị yên tâm! Không có ai trong đó cả. Vợ tôi “ở
xa” chưa về.
Khi bố trí hai mẹ con thiếu phụ chỗ
nằm xong. Ngó đồng hồ đã gần 12 giờ khuya. Anh lôi gối chăn trong tủ, nằm tạm
trên ghế salon đánh một giấc ngon lành tới sáng.
Khi những chiếc xe chở hàng về thị xã bóp còi
inh ỏi. Nghe ngoài trời mưa cũng tạnh, anh dậy xuống phía sau đánh răng, rửa mặt.
Khi đi ngang qua thấy hai mẹ con người cùng quê còn ngủ say, anh nhè nhẹ mở cửa
bước ra hiên vươn vai hít thở không khí trong lành. Sáng phố huyện đầy sương
giăng trắng thung đồi. Thị trấn núi chừng cũng bắt đầu nhộn nhịp sau một
đêm ngủ sâu ngon giấc. Những hàng cây hai bên đường lao xao trong gió sớm như
reo mừng đón chào ngày mới. Nhìn bầu trời mai trong veo như rửa sạch bụi bặm
sau một đêm mưa, anh cũng nghe lòng thanh thản quên những lo toan hiện tại.
Căng lồng ngực hít một hơi không khí tinh khiết, thơm lành, anh ngẫu hứng huýt
sáo một khúc tình ca. Cô bé bán cà phê quen thuộc trước nhà thấy anh bữa nay dậy
sớm bất thường, có vẻ tràn niềm vui, nên mỉm cười trêu:
- Chú Thanh hôm nay có gì mà vui thế? Cứ như có người yêu ấy.
***
Chị giật mình thức giấc sau đêm ngủ thật say,
nhìn ánh sáng ban mai đã ngập cả căn phòng nhỏ. Như mắc cỡ vì ngủ mê, khuôn mặt
người đàn bà một con đỏ hây hây như gái mới về nhà chồng. Chị dòm ra cửa thấy
anh và mấy đàn ông đang cà phê trò chuyện. Chị quay nhìn khắp căn phòng, ngoài
chiếc máy photocopy dựng phía trước bàn for-mica làm việc đầy giấy tờ. Ngước
lên bốn vách tường treo toàn tranh vẽ, có cả chân dung. Nhiều tranh vẽ cảnh quê
hương giống nơi Thu Bồn của chị. Chị chú ý đến một bức khỏa thân, người thiếu nữ
trong tư thế nằm nghiêng, kín đáo, thánh thiện với khuôn mặt thanh tú, suối tóc
dài đen mượt làm nền, nổi bật làn da trắng muốt.
Vào phía sau, thấy mấy cái bát chén, cả bộ
đồ chưa giặt. Chị chú ý xem thử, hình như không thấy dép guốc, đồ của phụ nữ, chợt nghe lòng sờ sợ khi vừa ngủ qua đêm trong căn phòng nhỏ có mỗi người đàn
ông.
Xuống phòng tắm và nhà vệ sinh chung nằm sau tấm
cửa đã hư chốt khóa, Chị đánh răng, rửa mặt xong, tiện tay, rửa mấy chén bát
trong thau và giặt luôn bộ đồ trong chậu. Chị nghĩ “một đêm nằm hơn năm ở” làm chút để cảm ơn
anh. Vả lại, việc của đàn bà, có chi đâu mệt nhọc. Nghe tiếng huýt sáo, biết chủ
nhà đã về. Chị cũng vừa giặt xong, định tìm chỗ phơi.
- Ôi! Sao chị lại làm thế! - Anh hơi ngượng
ngùng lên tiếng.
- Có chi mô đâu anh! - Giọng Quảng nghe mộc mạc,
chân thành
- Thôi! Chị cứ để đó, lát tôi phơi. Mời chị
và cháu lại ăn sáng.
Vừa nói, anh bỏ hủ tiếu vừa mới mua vào trong
hai chiếc tô sứ, biết không thể khách sáo trong khi bụng đang đói. Hai người ngồi
ăn trong im lặng, rụt rè, cứ như đôi vợ chồng mới cưới. Anh có cảm nghĩ như thế
khi nhìn người đàn bà lạ trước mặt đôi gò má đỏ ửng như thẹn thùng.
Sau bữa điểm tâm sáng. Họ nhận ra đồng hương
cùng huyện. Chị nói bồng con đi thăm chồng. Nhìn địa chỉ chị đang tìm, anh biết
đó là Hạ, lái xe cho công ty tư nhân cách mươi căn nhà, sáng nào cũng gặp ở
quán cà phê. Định nói rõ về Hạ nhưng anh sợ chị nghe bị sốc, nên khuyên chị cứ
nghỉ ngơi cho lại sức, để anh liên lạc giúp cho.
Chẳng dám hối thúc, nhưng đến ngày thứ ba vẫn
thấy anh làm việc. Vắng khách thì anh cặm cụi vẽ tranh. Nóng ruột, chị bồng con
đòi đi tìm, dù trong túi không còn cắc bạc. Anh hoảng, đành kể thật với chị là
Hạ không còn ở đây nữa, nghe đâu về Sài gòn từ mấy tháng trước. Anh hứa sáng
mai sẽ đi. Một ngày, một đêm không có anh, chị cứ thắc thỏm bồng con vào ra
mong chờ, không biết anh đã tìm được chồng chị chưa? Sao ba bé Ly Ly không làm ở
đây mà vô Sài gòn? Sao lâu nay bặt tin? Bao câu hỏi vẫn chưa có câu trả lời, chị
nghe rối bời ruột gan. Ngồi mãi trong nhà chán, chiều chị cùng con ra trước tiệm
ngồi ngó những chuyến xe xuôi ngược mà ao ước đi tìm chồng. Phố núi lại
mưa, những giọt mưa sụt sùi như nước mắt người đàn bà bất hạnh. Buồn như câu ca:
Đời em như hạt mưa sa, vô duyên rớt xuống lạc qua vũng bùn.
Cô gái bán cà phê thấy cả tuần nay có người đàn
bà lạ trong nhà chú Thanh. Tò mò. Nhân lúc vắng khách, cô chạy sang làm quen. Cầm
gói bánh cho bé Ly Ly, cô gái tươi cười:
- Chú Thanh đi đâu rồi cô?
- Chú đi Sài Gòn có chút việc - Chị thành thật
trả lời.
Cô gái ngần ngừ:
- Hỏi, không phải, mong cô bỏ qua. Có phải
cô là...?
Chị chưa kịp trả lời, cô gái đoán bừa:
- Nghe giọng, biết cô người Quảng, nhất định cô
là vợ chú rồi! Hơn nữa cháu nhìn em bé rất giống chú Thanh. Sao giờ cô mới vô
thăm chú.
Biết cô gái đã nhầm, chị định thanh minh. Bé Ly
Ly đang chơi bỗng vấp ngã, chị chạy lại đỡ con. Nhìn kỹ, chị bỗng thấy con giống
anh thật, giống đến kỳ lạ. Sợ cô gái hỏi nữa khó trả lời, chị đánh trống lảng:
- Cháu bán có nhiều khách không?
- Dạ! Cũng được cô ạ.
- Thế cũng đủ sống cháu nhỉ?
- Dạ! Cũng tạm đủ cô ạ! -Và như chợt nhớ
điều gì, giọng cô gái có vẻ buồn bực:
- Khách của cháu toàn người quen, đông, nhưng
tháng trước cháu bị quỵt nợ gần cả triệu.
- Bán cà phê mà cũng bị quỵt cả triệu ư?
- Thì cháu đâu có ngờ lão Hạ lái xe lại chơi bẩn.
Tưởng người đàng hoàng cháu mới cho ký sổ, đợi cuối tháng lãnh lương lão
trả. Ai ngờ...
Nghe tên Hạ, lái xe, chị hơi nghi ngờ, hỏi cặn
kẽ cô gái, mới biết chồng chị bỏ lái xe, theo một bà nạ dòng giàu có ở Sài gòn,
chuyên buôn lậu các thứ tuyến đường dài. Hèn chi, anh biết mà giấu chị. Không
biết anh vào Sài gòn có gặp chồng chị? Liệu có kết quả gì không?
Bỗng thấy tối tăm mặt mày, sợ cô gái phát hiện,
chị lấy cớ đang nấu cơm nên xin phép bồng con vô nhà. Nằm vật vã trên giường chị
đã khóc, không ngờ chồng phản bội. Năm ngoái, lũ lụt trôi hết nhà cửa. Mẹ và đứa
em út bị nước cuốn. Khi bà con trong xóm tìm thấy xác, gọi điện mấy lần anh
cũng bảo bận việc, không thể về. Rồi cơn bão kế tiếp quét sạch mọi thứ, nhắn
tin, gọi điện, Hạ cũng lặng im. Tưởng chồng đau ốm, chị mượn tiền họ hàng bồng
con đi tìm, đâu ngờ vừa đến nơi lại bị kẻ gian trộm sạch. Chị nhớ ai đó từng
nói: “Một vài trái tim được hàn gắn, một vài trái tim nát tan, mặc dù chẳng bao
giờ có ai muốn vậy, bởi tình yêu luôn được thề thốt đầu bạc răng long. Tôi đã
khóc, và cầu nguyện, và van xin, chỉ mong tình yêu bền vững. Hy vọng là tất cả
những gì tôi cần, và đau đớn là tất cả những gì tôi tìm thấy.” và thật may
mắn, chị đã tìm gặp anh... Người đàn ông chủ nhà thật tốt bụng, biết thương người.
Ngồi dậy sửa lại mềm gối sau cơn chán chường.
Bàn tay chị chạm xâu chìa khóa, nhìn tủ gỗ góc tường đang khóa đến hai ống
khóa, tò mò, chị đút thử từng chiếc, bàn tay run run như kẻ trộm khi biết mình
làm một điều không phải. Trong tủ chẳng có gì quan trọng ngoài mấy bộ đồ anh mặc,
một xấp giấy tờ linh tinh. Trong đó có cả hóa đơn nộp thuế, giấy hợp đồng thuê
nhà (dù là nhà bạn bè thân). Ngăn trên vài phác thảo bút chì tranh khỏa
thân, người đàn bà tóc dài đen mượt trong nhiều tư thế nằm kín đáo, Có lẽ tưởng
tượng không người mẫu nên nhiều bức thiếu hồn. Chị bỗng giật mình dưới xấp
bản thảo một bì thư đựng tiền, chị hồi hộp mở ra đếm, đúng năm triệu.
Chị cầm số tiền chợt nghĩ chừng này cũng đủ đi Sài gòn tìm ba bé Ly Ly, hoặc
có thể trở lại quê trả bớt tiền đã vay mượn. Một mảnh giấy nhỏ trong bì
thư rơi ra, chị nhặt lên xem, mới biết khoản tiền anh dành trả tiền thuê nhà
sáu tháng tới. Không hiểu đã nghĩ gì, chị cẩn trọng để nguyên mọi thứ như cũ, kể
cả xâu chìa khóa cũng trở về dưới gối.
Từ thành phố trở về, gương mặt thật buồn. Anh kể
đã tìm được Hạ, báo tin vợ con vào tìm, không may mất hết tiền bạc, khuyên anh
ta về, dù gì cũng tình chồng vợ, cha con. Không những không cảm ơn, Hạ cười khẩy,
mỉa mai, nghi ngờ quan hệ giữa hai người cả tuần ở chung.
Đêm nay là đêm cuối ở trọ nhà anh. Mai chị xin
phép bồng con về lại quê bởi chẳng còn gì chờ đợi, ràng buộc. Vì cũng đã nhờ vả
quá nhiều rồi, tá túc, nương nhờ anh hơn một tuần, chị thầm biết ơn thật nhiều.
Người đồng hương tốt bụng, vô tư, không hề biết lợi dụng dù những đêm hôm vắng
chỉ có hai người khác phái, không máu mủ, ruột rà. Tỉnh giấc, chị nằm thao thức
trằn trọc, không biết lúc tối có lỡ lời gì với anh không? Hình như tối qua chị
đã khóc thì phải? Chị lại giận Hạ cạn tàu, ráo mán, ham của mới, lạ, bạc tiền,
nhẫn tâm bỏ rơi mẹ con chị trong lúc khốn cùng. Cũng may, trời xui, đất khiến
gặp anh, không thì chẳng biết sẽ ra sao? Người đâu mà tâm tánh hiền lành.
Nhớ hôm đầu phát hiện mình ngủ nhờ nhà có mỗi người đàn ông trong đêm đầy gió
mưa, cửa đóng then cài. Nếu lỡ gặp phải gã sở khanh thì cũng chịu, hết phương
chống cự. Càng nghĩ chuyện anh vào Sài gòn tìm Hạ, bị nghi oan nên càng quý trọng
anh hơn.
Chợt nghe áo quần âm ấm, thì ra con Ly Ly ngủ
mê, đái dầm ướt cả mẹ. Chắc lúc tối anh cho nó uống nhiều sữa. Chị rón rén ngồi
dậy lấy áo quần trong túi xách, liếc ra ghế salon thấy anh đắp chăn nằm im
dưới ngọn đèn lờ mờ. Sợ anh thức, chị không dám bật đèn, mò mẫm xuống phòng tắm.
Mai tiễn hai mẹ con người đồng hương về lại xứ,
có gì đó hụt hẫng trong anh. Suốt một tuần có mẹ con chị ở, căn phòng
không còn lạnh lẽo, dường ấm hẳn lên. Từ hôm có chị, công việc bỗng đắt đỏ hơn,
cứ như chị hợp tánh, như Thần tài về gõ cửa. Sáng cà phê, nghe con bé chủ
quán cứ khen vợ chú Thanh đẹp, hiền, nhất là Ly Ly giống ba như đúc. Lâu
nay sao chú giấu kỹ ngoài quê. Anh cứ ám ảnh mãi. Lúc tối anh có làm tiệc nho
nhỏ tiễn đưa hai mẹ con chị. Bé Ly Ly nhõng nhẽo đòi anh đút sữa mới chịu. Rồi
nó buồn ngủ trên tay anh, chị với tay bồng con vào giường. Đêm phố buồn chi mà
cứ mưa rả rích. Trong căn phòng chỉ có hai người, anh rót ly vang Đà Lạt
mời chị, lúc đầu chị nói mình không quen rượu, nhưng có lẽ cám cảnh phận mình,
lại xin phép uống cạn ly, rồi gục xuống bàn. Anh dìu chị lại giường ngủ, đắp
chăn cho cả hai mẹ con. Trong cơn mê say, chị ôm lấy anh khóc bảo đừng bỏ
rơi hai mẹ con em, tội nghiệp em! Hạ ơi! Biết chị nhớ chồng, từ
quê lặn lội vào tìm, giờ hầu như mất tất cả, anh nghe lòng mình cũng xót xa.
Anh gỡ tay chị, an ủi, vỗ về thôi hãy ráng ngủ đi, mai còn lên xe ngồi cả dặm
đường dài. Không biết vui hay buồn, ngồi một mình trong đêm phố sụt sùi mưa,
anh uống hết chai vang, giờ nghe no bụng.
Định bật đèn, nhưng lại thôi, Anh mở đèn
pin điện thoại se sẽ bước vô phòng tắm lúc chị đang khỏa thân lau rửa. Nghe tiếng
bước chân và ánh sáng lấp lóa, biết anh đang xuống, chị hoảng, định la lên,
nhưng kịp nghĩ: Đêm hôm khuya khoắt, gió mưa, liệu có ai nghe? Vả lại, nhà của
anh chứ đâu phải của mình? Chị vội nép vào sau cánh cửa, nghĩ chắc anh “giải
quyết” sẽ nhanh thôi. Nhưng lòng lại sợ bị phát hiện nên trống ngực cứ đánh
thình thịch, cứ nép sát vào trong. Thoáng nghe tiếng động nhỏ và hơi thở dồn
sau cánh cửa, anh tò mò, rọi đèn ghé mắt nhìn vào, chị điếng người, đôi tay nõn
nà run rẩy, cầm chiếc áo lúng túng vội che thân thể ngọc ngà, kín trên, hở dưới...
Sau đêm đầy “tai biến” ấy, anh không còn ngủ ở
salon nữa. Chị ở lại. Hai người như đôi vợ chồng son trong tuần trăng mật. Rồi
anh đưa chị đi thăm, ra mắt bạn bè thân. Ai cũng khen chị đẹp, hiền, khen bé Ly
Ly giống cha như hai giọt nước.
Hôm chị xin phép anh đưa con trở lại quê để giải
quyết bao công việc, trong đó có cả ra tòa ly hôn, dù Hạ vắng mặt, không về. Tiễn
chị lên xe, cả hai lòng bịn rịn, anh căn dặn đủ điều, và chờ mong mẹ con
chị sớm quay vào.
***
Mùa bão lũ năm ngoái, gia đình chị là người bị
thiệt hại nặng nề nhất. Hôm được chính quyền và các đoàn thể địa phương mời lên
nhân một khoảng tiền hỗ trợ không nhỏ từ quỹ xóa đói, giảm nghèo của Chính phủ
và tiền của đồng bào cả nước ủng hộ vùng bị thiên tai, lũ lụt. Lần đầu tiên cầm
số tiền lớn trong tay, chị đã khóc. Khóc thương bao người thân
đã mất, bị lũ cuốn trôi. Khóc cho cả người chồng cũng bị cuốn trôi vào nhan sắc,
bạc tiền giàu có bất nghĩa, đành đoạn bỏ rơi hai mẹ con. Chị như vầng
trăng khuyết lẻ loi, như chiếc thuyền cô độc trôi qua màn đêm đại dương giá buốt,
một vầng trăng mỏng mảnh, nghiêng ngả chông chênh, lấm đầy sương gió, và
như “hòn vọng phu” ôm con trơ trọi giữa cuộc đời.
Cầm trên tay số tiền lớn, chị biết được quyên
góp tự nguyện từ những em bé nhịn ăn quà mỗi sáng. Của những cụ già, những người
hưu trí tiết kiệm, và cả bao người. Trong triệu tấm lòng “lá lành đùm lá rách” ấy,
chắc chắn có anh, bởi người như anh không thể thờ ơ trước đồng bào ruột thịt của
mình lâm cảnh màn trời, chiếu đất.
Trong căn nhà cấp bốn mới xây, khang trang. Đêm
nay bên sông Thu Bồn dìu dặt con nước chảy. Giọng hò khoan từ những thuyền nan
của khách thương hồ xuôi bến Gò Nổi, Kỳ Lam ngân nga trong khuya như lời trần
tình tha thiết. Phía hạ lưu vầng trăng mười sáu sáng rờ rỡ đậu trên ngọn tre
lung lay ngọn gió, xao động cả tâm hồn. Bé Ly Ly lại ngủ mớ,
khóc gọi ba Thanh. Chị cũng cồn cào nhớ anh, nhớ đêm phố núi mưa dầm, đêm
con bé hư, đái dầm ướt chị, để rồi phải lòng, nằm trong vòng tay anh. Nhất định
mai chị bồng con vào thăm, chắc anh đang ngày đêm mong đợi. Vào, không phải ở lại
mà gọi anh về với mẹ già tuổi xế chiều, đơn chiếc nơi quê. Vào, cũng để báo tin
vui, giọt máu của anh đã tượng hình, cựa quậy trong chị. Sứ giả hạnh phúc mốt
mai sẽ chào đời. Chị lại khóc, nhớ số tiền anh dành dụm trả tiền nhà đã lén bỏ
hết vào túi xách, sợ hai mẹ con thiếu thốn đọc đường về.
Làm nhà, mua sắm những vật dụng cần thiết, còn
dư một khoản tiền, chừng ấy cũng đủ để anh về, ra thị trấn thuê mở một
tiệm nhỏ làm việc. Với chị, ngoài lương giáo viên cấp ba, còn có một mảnh vườn
rộng mới trồng quanh nhà, hy vọng mỗi mùa sẽ kết nụ, sum suê hoa trái. Chừng
ấy cũng đủ đầy cho cuộc sống, chẳng gì phải lo toan. “Tình yêu chân
chính không bị mài mòn bởi thời gian, cũng không thể đổi thay bởi hoàn cảnh” Chị
nhớ hình như tác giả Schiller đã nói như thế. Và Johann Wolfgang Von
Goethe cũng từng khẳng định:
- “Yêu thương và khát khao là đôi cánh đưa linh
hồn bay tới những điều vĩ đại”.
Có lẽ anh cũng cảm nhận ngôn ngữ huyền diệu của
tình yêu như chị, sẽ về với mẹ con chị, về nơi chôn nhau cắt rốn cội nguồn, với
vườn cau, giàn trầu tơ duyên nhà mẹ. Về vun tưới lại tình yêu nửa đời mình đã
hư hao, thất lạc. Về đón nhận tình yêu chị dành hết cho anh như vầng trăng viên
mãn, tròn đầy sau bao mùa gieo neo, hao khuyết.
Lâm Đồng, tháng tám, 2022
Lê Huỳnh Túy Tâm
© Tác giả giữ bản quyền. Vui lòng ghi rõ nguồn Bông Tràm khi sử dụng lại nội dung này.
|
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét