- Trang chủ
- |
- Giới thiệu
- |
- Quy ước
- |
- Tác giả
- |
- Thư ngỏ
- |
- Lá thư Bông Tràm
Tác phẩm kỷ niệm 10 năm hoạt động của Bông Tràm, có sự góp mặt của 50 tác giả với trên 100 tác phẩm. Sách dày 312 trang, khổ 13 x 19 cm, giá 100.000 đồng.
Năm 1698, Nguyễn Phước Chu - tức chúa Minh - sai Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh vào Nam kinh lý và lập phủ Gia Định. Nhưng trước đó, có lẽ hàng thế kỷ, nhiều sử liệu cho thấy người Việt Nam đã tới buôn bán và khẩn hoang lập ấp rải rác trong đồng bằng sông Mê Kông và sông Mê Nam bên Xiêm rồi.
Biên niên sử Khơmer chép: “Năm 1618, vua Chey Chettha II lên ngôi. Ngài liền cho xây cung điện nguy nga tại U Đông, rồi cử hành lễ cưới trọng thể với một nàng công chúa Việt Nam rất xinh đẹp là con chúa Nguyễn (người ta phỏng đoán đó là công nữ Ngọc Vạn, con chúa Sãi Nguyễn Phước Nguyên). Hoàng hậu Sam Đát Việt Nam cho đem nhiều đồng hương tới Campuchia, có người được làm quan lớn trong triều, có người làm các nghề thủ công và có người buôn bán hay vận chuyển hàng hóa”[1].
Năm 1623, chúa Nguyễn sai một phái bộ tới yêu cầu vua Chey
Chettha II cho lập đồn điền thu thuế tại Prei Nokor (Sài Gòn) và Kas Krobei
(Bến Nghé). Đây là vùng rừng rậm hoang vắng nhưng cũng là địa điểm qua lại và
nghỉ ngơi của thương nhân Việt Nam đi Campuchia và Xiêm La. Chẳng bao lâu, hai
đồn thu thuế trở thành thị tứ trên bến dưới thuyền, buôn bán và làm ăn sầm uất.
Giáo sĩ người Ý tên Christofo Borri sống tại thị trấn Nước Mặn
gần Quy Nhơn từ 1618 đến 1622, viết hồi ký: “Chúa Nguyễn phải chuyên lo việc tập
trận và gởi quân sang giúp vua Campuchia - cũng là chàng rể lấy người con gái
hoang (tille batarde!) của chúa. Chúa viện trợ cho nhà vua và cả tàu thuyền lẫn
binh lính để chống lại vua Xiêm”. Borri cũng tả khá tỉ mỉ về phái bộ của chúa
Nguyễn đi Campuchia hồi 1621: “Sứ thần là người sinh trưởng tại Nước Mặn, một
nhân vật quan trọng đứng sau chức Tổng trấn. Trước khi lên đường, ông đã để lại
nhiều ngày giờ bàn bạc và nhận lệnh của chúa. Sứ bộ gồm khá đông người, cả quan
lẫn lính, vừa nam vừa nữ, chuyên chở trên những chiếc thuyền lớn có trang bị vũ
khí và bài trí lộng lẫy. Khi sứ bộ tới kinh U Đông, thì dân chúng Khơ Me,
thương nhân Bồ Đào Nha, Nhật Bản, Trung Hoa đã tụ hội đông đảo để đón tiếp và
hoan nghênh. Vì sứ thần đây là người quen thuộc, đã lui tới nhiều lần, từng làm
đại diện thường trú từ lâu, chứ không phải sứ giả mới tới lần đầu”[2]. Borri
còn cho biết tòa sứ bộ khá quan trọng và đông đúc, nào thê thiếp người hầu kẻ
hạ của sứ thần, nào binh sĩ giữ gìn an ninh và phục dịch sứ bộ.
Một giáo sĩ khác người Pháp tên là Chevreuil tới thăm Colompé
(tức Phnom Pênh, Nam Vang) hồi 1665 đã thấy “2 làng An Nam nằm bên kia sông,
cộng số người được độ 500, mà kể theo đạo Công giáo chỉ có 4 hay 5 chục
người”[3]. Ngoài Nam Vang, tại các nơi khác cũng có nhiều người Việt Nam sinh
sống, ở thôn quê thì làm ruộng, gần phố chợ thì buôn bán, làm thủ công hay
chuyên chở ghe thuyền, kể hàng mấy ngàn người. Như ở Đất Đỏ, Bà Rịa, Bến Cát,
cù lao Phố, Mỹ Tho, Hà Tiên…
Ngoài đồng bằng sông Mê Kông, người Việt Nam còn đến làm ăn và
định cư rải rác trong đồng bằng sông Mê Nam. Lịch sử cho biết: Dân tộc Thái mới
lập quốc từ thế kỷ VII sau Công nguyên ở giữa bán đảo Đông Dương và chủ yếu
trên lưu vực sông Mê Nam. Nước này gọi là Xiêm hay Xiêm La (Siam), từ năm 1939
mới đổi tên là Thái Lan. Kinh đô Xiêm xưa ở Ayuthia, xây dựng từ năm 1350 trên
một khúc quanh của sông Mê Nam cách biển gần 100km. Theo bản đồ Loubère vẽ năm
1687 thì kinh đô Ayuthia nằm trong một hòn đảo lớn giữa hai nhánh sông Mê Nam.
Đường sá, cầu cống, phố chợ, lâu đài… được ghi khá rõ ràng. Lại có thêm chú
thích minh bạch như: A = phố thị, B = cung điện, C = bến cảng, D = xưởng thủy
hải quân, E = xưởng thủy ghe thuyền, F = Chủng viện… Chung quanh hòn đảo chính
có những khu vực dành riêng cho dân Xiêm hay người nước ngoài cư trú: người
Xiêm ở phía bắc và tây bắc, người Hoa ở phía đông, người Việt Nam, Mã Lai, Nhật
Bản, Hòa Lan, Bồ Đào Nha ở phía nam. Nơi người Việt ở cũng là một cù lao khá
rộng, qua sông là tới phố thị kinh đô, việc đi lại giao dịch rất thuận lợi. Nhìn
cách bố trí thôn trại chung quanh Ayuthia, ta có thể phỏng đoán cộng đồng người
Việt ở đây khá đông và là một trong mấy nhóm ngoại quốc tới lập nghiệp sớm
nhất. Trên bản đồ có ghi rõ chữ Cochinchinois nơi thôn trại Việt. Đương thời,
địa danh này chỉ người Đàng Trong và cũng có thể chỉ chung người Việt Nam, vì
trước đó - trong thời gian chưa có phân tranh Trịnh - Nguyễn, Tây phương dùng
địa danh ấy, biến dạng bởi Giao Chỉ - Cauchi - Cauchinchina - Cochinchine để
gọi chung Việt Nam[4]. Đa số người Việt ở đây là người Đàng Trong, song cũng có
người Đàng Ngoài. Họ tới định cư và lập nghiệp có lẽ từ thế kỷ XVI hay đầu thế
kỷ XVII rồi, nghĩa là từ thời nhà Mạc khi trong nước rất xáo trộn và loạn ly.
Theo ký sự của Vachet thì ở cố đô Xiêm cũ đã có 60 tráng đinh hay 300 người,
nếu kể cả nam nữ già trẻ[5]. Ngoài Ayuthia, người Việt còn tới làm ăn định cư
tại Chân Bôn (Chantaburi) và Bangkok là những thương điếm trung chuyển từ Hà
Tiên tới kinh đô Xiêm. Sử Việt Nam và sử Khơmer cũng nhất trí ghi sự kiện: Năm
1674, Nặc Ong Đài đánh đuổi nhà vua Nặc Ong Nộn. Nộn chạy sang cầu cứu chúa
Nguyễn. Chúa liền sai thống suất Nguyễn Dương Lâm đem binh đi tiến thảo, thâu
phục luôn ba lũy Sài Gòn, Gò Bích và Nam Vang (trong sử ta, địa danh Sài Gòn
xuất hiện từ 1674 vậy). Đài thua chạy rồi tử trận. Chúa Nguyễn phong cho Nặc
Ong Thu là Cao Miên quốc vương đóng đô ở U Đông, cho Nặc Ong Nộn làm phó vương
ngự trị tại Sài Gòn nơi đã có người Việt định cư sinh sống.
Sử ta còn ghi rõ: Năm 1679, chúa Nguyễn Phước Tần tức Hiền Vương
cho bọn người Hoa muốn “phục Minh chống Thanh” là Dương Ngạn Địch tới Mỹ Tho,
Trần Thượng Xuyên tới Biên Hòa và Sài Gòn để lánh nạn và làm ăn sinh sống.
Những nơi đó chắc là đã có người Việt tới sinh cơ lập nghiệp từ lâu. Như Trịnh
Hoài Đức đã chép: các chúa Nguyễn “chưa rảnh mưu tính việc ở xe nên phải tạm để
đất ấy cho Cao Miên ở, nối đời làm phiên thuộc ở miền Nam, cống hiến luôn
luôn”. Nhưng năm 1658, “Nặc Ong Chân phạm biên cảnh”, Hiền Vương liền sai “phó
tướng Tôn Thất Yên đem 3 ngàn binh đi hai tuần đến thành Mô Xoài (Bà Rịa), đánh
phá kinh thành và bắt được vua nước ấy”. Sau được tha tội và được phong làm Cao
Miên quốc vương, “giữ đạo phiên thần, lo bề cống hiến, không xâm nhiễu dân sự ở
ngoài biên cương. Khi ấy địa đầu Gia Định là Mô Xoài và Đồng Nai đã có lưu dân
của nước ta đến ở chung lộn với người Cao Miên khai khẩn ruộng đất”[6]. Như vậy
là từ trước năm 1658, Mô Xoài và Đồng Nai đã thuộc “biên cảnh” của Việt Nam. 40
năm sau (tức 1698) chúa Nguyễn mới sai Nguyễn Hữu Cảnh vào “kinh lý” miền Nam.
Đó là cuộc kinh lý miền biên cảnh - khi ấy “đất đai đã mở rộng ngàn dặm, dân số
có dư tứ vạn hộ”, nghĩa là miền “biên cảnh rộng khắp miền Đông Nam bộ nay. Trên
cơ sở lưu dân Việt Nam tự phát tới khẩn hoang lập ấp”, Nguyễn Hữu Cảnh đã lập
phủ Gia Định và hai huyện Phước Long, Tân Bình (một phần nay là TP.HCM). Đúng
là dân làng đi trước, nhà nước đến sau. Và miền biên cảnh Nam bộ sáp nhập vào
cương vực Việt Nam một cách thật ôn hòa và hòa hợp dân tộc vậy.
Nguyễn Đình Đầu
_____________
CHÚ THÍCH:
1. Moura, Royaume du Cambodge, Paris, 1883. tr.57.404.
2. Christofo Borri, Relation de la nouvelle mission des peores
de la Compagnie de Yùeùsus au Royaume de Cochinchine, Lille, 1631.
3. A. Lau nay, Histoire de la mission de Cochinchine. 1658-1823.
T.I Paris, 1923. Tr. 65-72.
4. L. Auroussseau, Sur le nom de Cochinchine. BEFEO, T.XXIV,
1924.
5. A. Launay, Snd Vachet.
6. Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí - Nguyễn Tạo dịch,
Tập Trung. Sài Gòn, 1972. tr.12-13.
© Tác giả giữ bản quyền. Vui lòng ghi rõ nguồn Bông Tràm khi sử dụng lại nội dung này.
|
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét