- Trang chủ
- |
- Giới thiệu
- |
- Quy ước
- |
- Tác giả
- |
- Thư ngỏ
- |
- Lá thư Bông Tràm
Tác phẩm kỷ niệm 10 năm hoạt động của Bông Tràm, có sự góp mặt của 50 tác giả với trên 100 tác phẩm. Sách dày 312 trang, khổ 13 x 19 cm, giá 100.000 đồng.
Đôi khi cứ tưởng văn chương là vô dụng (trừ những người kiếm
sống được nhờ văn chương - số này chỉ đếm trên đầu ngón tay). Số còn lại viết
để giải tỏa cảm xúc, viết do sự thúc bách bên trong. Viết văn, làm thơ như bị
trời đày.Trần Dzạ Lữ
Nhưng cũng có người nhờ văn chương mà thoát được nguy nan. Có
người nhờ văn chương mà cưới được vợ.
Trường hợp nhờ văn chương mà thoát bị rơi vào nơi hiểm yếu trận
mạc đó là nhà thơ Trần Dzạ Lữ- Anh cũng là một nhà thơ có tiếng nói phản chiến
trong thơ rất mạnh mẽ. Anh sinh trưởng tại Huế. Học Trường Nguyễn Tri Phương.
Đến cuối năm lớp đệ tam (lớp 10 bây giờ), Tết Mậu Thân 1968, đang học dở dang
thì có tổ chức động viên lên rừng sung vào lính. Nhưng anh không muốn cầm súng
bắn ai nên trốn vào Đà Nẵng để học tiếp. Tại đây anh đã thi và lấy được bằng tú
tài I. Thi tú tài II không may bị rớt. Trong hoàn cảnh chiến sự, trốn chui trốn
lũi vậy làm sao yên mà học, nên đậu được bằng tú tài I kể ra cũng OK rồi! Tại
Đà Nẵng anh cũng không thoát lính. Anh bị bắt đi quân dịch, tập trung huấn
luyện ở Hòa Cầm (Quảng Nam) để tham gia chiến đấu ở mặt trận Thường Đức (Quảng
Nam). Hai tháng sau, thì Tạp chí VĂN là một tạp chí văn học nghệ thuật ở miền
Nam, nổi tiếng thời bấy giờ đưa tin là: Trần Dzạ Lữ bị bắt đi đào tạo quân dịch
để chuẩn bị đi Thường Đức mà mặt trận Thường Đức ác liệt lắm đi là chết chắc.
Mấy ai trở về. Dù vẫn biết “chiến tranh không phải trò đùa”, và “Cổ lai chinh
chiến kỷ nhân hồi”. Chả thế mà người mẹ của nhà thơ Trần Đăng Khoa ở tận miền
Bắc xa xôi, mỗi lần nghe tiếng bom rơi, đạn nổ bà cũng bàng hoàng thốt lên rằng
: ôi chiến tranh! thớt trên mòn thì thớt dưới cũng mòn. Bà ví chiến tranh như
cái cối xay. Quả là đúng là cái cối xay thịt - người nông dân hiền lương dùng
cách ví von thật cụ thể, hình tượng và dễ hiểu.
Mặt trận nào cũng tang thương, chết chóc, bên nào cũng đổ máu,
nhưng mặt trận Thường Đức ai cũng phải rùng mình vì sự khốc liệt của nó.
Nghe tin, nhà văn, trung tá Duy Lam (Cháu nhà văn Nhất Linh)
đích thân lái xe jeep lên tận nơi huấn luyện bốc Trần Dzạ Lữ về đợn vị làm lính
cậu ở tiểu đoàn truyền tin, chuyên viết bài. Làm phóng viên chiến trường của
Quân Đoàn 1 cho các mặt trận đường 9 Khe Sanh, Hạ Lào. Sau chiến dịch mùa hè đỏ
lửa Quảng Trị năm 1972 anh xin giải ngũ nhưng không được chấp thuận. Năm 1973
anh đành nộp bằng tú tài xin vào học ở trường sĩ quan Thủ Đức. Đào tạo 9 tháng
thì ra trường với lon chuẩn uý (có chứng minh văn nghệ sĩ, văn bằng quản thủ
thư viện do Hội Việt Mỹ cấp). Rồi anh được bổ nhiệm về Tiểu đoàn 413 địa phương
quân Bến Tre. Bến Tre lúc này cũng không kém phần ác liệt! Nhưng như vậy cũng
xem như hên thêm lần nữa. Dù sao thì ở địa phương quân vẫn đỡ hơn vào quân đội
chính quy sẽ phải đối diện với rũi ro của chiến tranh nhiều hơn. Tuy vậy, cuối
năm 1974, trong một lần đụng độ, anh bị một một trái 82 hất văng 3 thước. Tưởng
chết! May là chỉ một mảnh nhỏ ghim vào phổi, được trực thăng vận về chữa trị
tại bệnh viện Cần Thơ. Thoát chết, thế cũng là may mắn!
Một năm rưỡi thì thống nhất đất nước (1975). Anh thuộc quân đội
bên thua cuộc phải đi học tập... nhưng anh chỉ đi học tập chính sách ở Sài Gòn
15 ngày sau đó về làm ăn sinh sống cho tới ngày nay. Tuy nhiên trong cái rủi
vẫn có cái may, trong cái may vẫn có cái rũi. Vì chính sách tiền lương dành cho
địa phương quân thanh toán chậm chứ không được như quân đội chính quy. Nên sau
1975 anh bị mất trắng một số tiền lớn lương sĩ quan truy lãnh 1,5 năm chưa kịp
lãnh. Thế là về tay trắng bầm dập kiếm sống qua ngày. Nhưng bù lại thì anh yên
hoàn hoan hỉ, xem như chỉ bị trầy xước nhẹ vì chiến tranh. Chỉ mỗi tội tay
trắng về vườn.
Cuối năm 1975 anh kết hôn với chị - người con gái Sài Thành -
chị học ĐH Triết Vạn Hạnh, hiền lành dễ thương, sinh cho anh một đứa con gái và
chị đã cùng anh đi qua bao thăng trầm dâu bể. Sau khi cưới, anh đưa vợ về Huế
nhưng công việc làm ăn không thuận lợi nên năm 1977 anh vào lại Sài Gòn lúc này
con gái đã được 2 tuổi. Anh cùng chị bán rau muống ở chợ rồi sau đó xin giữ xe
ở chợ Trần Hữu Trang trong 10 năm.
Tại đây anh đã có bài thơ hay. Nếu chọn hai câu thơ hay nhất
trong đời thơ Trần Dzạ Lữ: Tôi sẽ chọn hai câu này:
“Mười năm ở chợ không tri kỷ
Ta đứng thu thân một nỗi buồn” .
Hai câu thơ đầy hình tượng và có tính khái quát cao. Nói về nỗi
buồn của hoàn cảnh, nỗi buồn của thi nhân trong cảnh vật vã mưu sinh và những
ẩn ức chỉ có thể giải bày qua thơ.
Trần Dzạ Lữ sinh ra là để làm thơ nên chưa bao giờ anh từ bỏ.
Lúc vui, lúc buồn vẫn “vịn câu thơ mà đứng dậy” (Phùng Quán). Anh cũng có viết
ký, tản văn nhưng thơ chiếm ưu thế. Như chúng ta đã biết Trần Dzạ Lữ là bút
danh quen thuộc với bạn đọc miền Nam từ những 60-70 của thế kỷ trước, trên
nhiều tạp chí tên tuổi của nền Văn Học Miền Năm trước 1975. Dù thơ văn không
giúp anh no cơm ấm cật nhưng anh vẫn say mê với thơ, chưa bao giờ anh nghỉ thôi
làm thơ, nay cũng vậy, tuy cũng có thời gian ngưng đọng không viết, chỉ là lắng
lại vài nốt trầm rồi mạch nguồn thơ lại âm ỷ cháy như chưa bao giờ vơi cạn cho
đến tận bây giờ.
Người vợ tào khang của anh đã về miền mây trắng, anh nay bước
vào hàng thất thập, vẫn yêu thơ, vẫn sáng tác đều những vần thơ tình nồng nàn
không tuổi và “nằm yên dưới mái nhà” ở một vùng quê yên bình của TP Bà Rịa.
Sài Gòn, ngày 23/9/2023
Hoàng Thị Bích Hà
© Tác giả giữ bản quyền. Vui lòng ghi rõ nguồn Bông Tràm khi sử dụng lại nội dung này.
|
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét