- Trang chủ
- |
- Giới thiệu
- |
- Quy ước
- |
- Tác giả
- |
- Thư ngỏ
- |
- Lá thư Bông Tràm
Tác phẩm kỷ niệm 10 năm hoạt động của Bông Tràm, có sự góp mặt của 50 tác giả với trên 100 tác phẩm. Sách dày 312 trang, khổ 13 x 19 cm, giá 100.000 đồng.
Mai mốt em về làm cánh hạc
Ta có muôn phương bay cùng
nhau
Rừng tùng xanh sắc hương
miền Linh Thứu
Tây phương ánh vàng vằng
vặc trăng sao
Mình sẽ ngàn năm an nhiên
anh nhỉ
Chốn huyền không xanh cội
bồ đề
Những sơn thạch gương mặt
hồ phỉ thúy
Nước thơm thơm từng giọt
giọt suối khe
Dựng am cỏ bên đồi tre
trúc
Thiền viện đơn sơ tràng
hạt chiên đàn
Mỗi chiếc lá cũng mang hồn
Phật tính
Mỗi hạt sương ngọt vị bình
an
Em về cùng anh vui miền an
trú
Thắp ánh nhiên đăng soi
rọi tâm lành
Khắp cõi thiêng nắng mưa
luân vũ
Gió ngàn phương gieo hạt
thiện lành.
Nhà thơ Vạn Lộc còn vài năm nữa thì vào tuổi bát thập. Cách đây không lâu chị đã tiển đưa phu quân của mình về chốn an tịnh. Tôi nhớ trong bài thơ “Vắng Anh” đăng trong tập “Hái Mùa Động Vạt Nắng” chị đã khóc bằng lời không bi quan, rất thơ và rất gây cảm xúc:
Ta xin hái mùa đông vạt
nắng
Cài lên câu thơ tóc xỏa
bềnh bồng
Và quàng vào tim mình chút
ấm
Tựa tay người ve vuốt những niềm đông.
Trời mùa đông Đà Nẵng u ám
mấy tuần qua, sáng nay bắt đầu có chút nắng. Nhìn qua cửa sổ tôi thấy có những
vạt nắng mùa đông. Rồi tình cờ lại đọc bài thơ “Về Miền An Trú” của Vạn
Lộc, tôi thấy như chính mình cũng được an trú trong hương thiền như bài thơ của
Vạn Lộc. Nhu cầu viết nhờ đó lại trổi dậy trong tôi, tôi viết cho tôi, không
phải viết cho Vạn Lộc.
Đọc khổ thơ đầu, ta thấy nhà
thơ Vạn Lộc dự phóng một tương lai tốt đẹp của mình ở thế giới bên kia, hứa hẹn
với anh của mình đoàn tụ ở cõi tây phương cực lạc:
Mai mốt em về làm cánh hạc
Ta có muôn phương bay cùng
nhau
Rừng tùng xanh sắc hương
miền Linh Thứu
Tây phương ánh vàng vằng
vặc trăng sao
Hình tượng loài chim hạc ảnh
hưởng sâu sắc trong văn hóa phương Đông và mang nhiều biểu tượng thanh cao. Hạc
là con vật tượng trưng cho sự tinh tuý, thanh tịnh, thần tiên thoát tục còn gọi
là Tiên hạc. Chim hạc là loài chim của vũ trụ, của tầng cao, có tính cách của
người quân tử. Hạc còn được cho là linh vật, là loài chim có phẩm chất cao quý.
Tương truyền, núi Linh Thứu
không chỉ là một nơi nghỉ ngơi mà còn là một nơi tu hành của Đức Phật cũng như
các đệ tử của ngài. Địa điểm này thường xuyên được nhắc đến trong các cuốn kinh
Pali của Phật giáo Nam tông như là địa điểm thuyết giảng của Phật. Núi Linh
Thứu sau này cũng xuất hiện trong Bát-nhã-ba-la-mật-đa tâm kinh, Liên Hoa kinh
hay Thủ Lăng Nghiêm kinh.
Như vậy qua khổ thơ đầu tiên,
nhà thơ Vạn lộc đã hứa hẹn với anh cùng hóa hình thành cánh hạc, cùng ngao du
nơi chốn trần gian Phật từng ngự, cùng bay về cõi Niết Bàn ở “Tây phương ánh
vàng vằng vặc trăng sao”.
Tôi nghĩ nhà thơ Vạn Lộc có
quyền ước vọng như thế vì tác giả là một cư sĩ Phật Giáo, ăn chay trường và tu
tại gia nhiều năm qua. Tất nhiên nhà thơ Vạn Lộc dư biết muốn được như thế phải
qua ngàn vạn kiếp tu hành nhưng quyết tâm thì sẽ thành hiện thực, vì Đức Phật
đã nói “Ta đã thành Phật và các ngươi cũng sẽ thành Phật”.
Đọc khổ thơ một, không ai
không thấy lòng thanh thản bởi cảnh sắc được mô tả trong thơ thoát tục, bởi cái
tâm được thể hiện trong thơ an bình, thanh thản, thấy trước thế giới bên kia
của mình bình tịnh an vui. Khác với người đạo Thiên Chúa có niềm tin chắc chắn
vào cõi Vĩnh Hằng khi qua đời nầy, người theo đạo Phật không thể có niềm tin
chắc chắn là mình sẽ đến đâu. Thế nhưng qua thơ ta thấy Vạn Lộc như khẳng định
nơi mình đến sau kiếp nầy bằng chữ “Mai mốt em về” có nghĩa là sẽ
gần đây thôi. Tôi rất thích có niềm tin như Vạn Lộc, vì nó sẽ làm ta nhìn qua
thế giới bên kia không sợ hải, không lo âu, không đau khổ.
Qua khổ thơ thứ hai Vạn Lộc
giới thiệu chổ ở trong tương lai mà hai người sẽ sống ngàn năm cùng nhau, nơi
đây không là Niết Bàn cũng là tiên giới:
Mình sẽ ngàn năm an nhiên
anh nhỉ
Chốn huyền không xanh cội
bồ đề
Những sơn thạch gương mặt
hồ phỉ thúy
Nước thơm thơm từng giọt
giọt suối khe
“Chốn huyền không” là
chốn nào?. Chương Trọng Sơn nói: “Vô định, vô cứ, không phương hướng, không
góc cạnh, không khởi đầu, không kết thúc, không hình thể, không dấu vết, tồn
tại khắp nơi, không lúc nào không có. Đấy gọi là Huyền Không”. Vậy huyền không
ở đây là nơi “Sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc. Sắc tức là không,
không tức là sắc”. Cái cảm nhận và suy nghĩ ấy nằm trong “Bát nhã ba la
tâm kinh” tức là nơi trú ngụ của các bậc giác ngộ.
“Hồ phỉ thúy” ở đâu?
Hồ Thanh Hải hay hồ phỉ thúy nước xanh như ngọc phỉ thúy, núi đá bảy màu ở Cam
Túc, Thanh Hải, Trung Quốc giáp với Tây Tạng.
Đọc khổ thơ thứ hai ta thấy
Vạn Lộc tưởng tượng một cảnh sống xuất thế, họ sống có lẽ như A-Dam Và E-Va
thuở xưa trong vườn Địa Đàng mà Thiên Chúa dựng nên. Khổ thơ cho ta cảm nhận
ước vọng sống đơn sơ, không mang linh hồn thần thánh, chỉ mang linh hồn con
người thiên nhiên chưa ăn trái cấm, chưa biết tội lỗi là gì, còn trong như
tuyết, còn trắng như lông chiên.
Quả thật vậy, qua khổ thơ thứ
ba, nhà thơ Vạn Lộc nói rõ hơn ước vọng sống bình dị của mình, sống như người
vừa dựng nên từ tay Thiên Chúa, tâm hướng về Phật, hòa nhập cùng vô vi Lão Tử:
Dựng am cỏ bên đồi tre
trúc
Thiền viện đơn sơ tràng
hạt chiên đàn
Mỗi chiếc lá cũng mang hồn
Phật tính
Mỗi hạt sương ngọt vị bình
an
“Chiên đàn” đứng đầu trong 5 loại tuyệt đỉnh danh
hương, chiên đàn được dùng để làm tràng hạt trì niệm bởi mùi thơm trang nhã và
giá trị tâm linh cao tại các quốc gia Phật giáo như Nepal, Ấn Độ, Tây Tạng
...Từ xưa đến nay, thế gian lưu truyền ngũ danh hương – 5 loại hương thơm quý
nhất từ thiên nhiên: chiên đàn hương, trầm hương, đâu lâu ba hương, tất lực ca
hương và tử đinh hương. Trong đó, chiên đàn đứng đầu vì tương truyền có thể
diệt trừ ô trược (tà khí).
Trong khổ thơ thư ba, nhà thơ
Vạn Lộc dựng nên cho mình một khung trời thiền tịnh trong sạch, thơm tho, chẳng
khác chi vùng trời của Hàn Mạc Tử cho nhà thơ đi: “Người thơ là khách lạ đi
giữa nguồn trong trẻo. Trên đầu Người là cao cả, vô biên và vô lượng: xung
quanh Người là mơn trớn với yêu đương vây phủ bởi trăm dây quyến luyến làm bằng
êm dịu, làm bằng thành bại....Gió phương mô đẩy đưa Người đến bờ xa lạ, đầy
trinh tiết và đầy thinh sắc. Người dừng lại để hái những lá tinh hoa. Người nín
lặng để mà nghe tiếng trăng reo vang vang như tiếng châu báu vỡ lỡ. À ra Người
cũng dại dột, hốt vàng rơi bọc trong vạt áo.”. Khác Hàn Mạc Tử chăng
là nhà thơ Vạn Lộc đi trong vạn vật mang hồn Phật tính.
Khổ thơ thứ tư là khổ thơ kết
thúc trong miên viễn, trong vĩnh hằng hạnh phúc, trong ánh sáng thiện lành:
Em về cùng anh vui miền an
trú
Thắp ánh nhiên đăng soi
rọi tâm lành
Khắp cõi thiêng nắng mưa
luân vũ
Gió ngàn phương gieo hạt
thiện lành.
“Nhiên đăng” là gì?.
Chữ nhiên đăng được giãi thích bằng thơ như sau:
“ÁNH sáng từ bi bủa khắp
trời
NHIÊN quang đèn huệ rọi
cùng nơi
ĐĂNG minh soi thấu trong
ba cõi
TỎ RẠNG lý chân chỗ tuyệt
vời.”
“Nhiên Ðăng được xem là vị
Phật quan trọng trong các vị trước Thích-Ca. Ngài là vị đại diện cho Phật quá
khứ tương tự như trường hợp Di-Lặc được xem là đại diện cho Phật vị lai.
Danh hiệu Phật theo Phạn
văn là Dipamkara, dịch âm là “Đề hòa yết la”. Cũng còn dịch tên là Đính quang
Phật. Tên Nhiên Đăng là dịch theo ý. Trong Phật giáo đây là một trong những vị
cổ Phật đời quá khứ. Tương truyền rằng: lúc sinh thời, thân thể ngài tỏa rực
sáng như đèn nên mới gọi tên là Nhiên Đăng. Sau khi Ngài thành Phật cũng lấy
tên gọi ấy làm hiệu.”
Vạn lộc chấm dứt bài thơ
trong ánh sáng quá khứ của Phật, trong mưa luân vũ hiện tại, trong gió gieo hạt
thiện lành bây giờ. Như thế nhà thơ Vạn lộc và anh của bà đã đi và về được
trong thời gian, không dám nói là đã thành Phật nhưng có thể nói là đã vào chốn
thiên thần ngự trị. Tất nhiên hiện tại bà đã đi bằng thơ, cởi trên những tư duy
thiện lành để bay bằng con chữ sắc màu viên mãn “Đại dương minh vân” mà
Đức Phật phóng quang trên 2500 năm trước.
Châu Thạch
© Tác giả giữ bản quyền. Vui lòng ghi rõ nguồn Bông Tràm khi sử dụng lại nội dung này.
|
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét