Những cơn sóng biển hung dữ ào ạt xô vào
bờ và cuốn phăng đi tất cả những gì chúng gặp trên đường, rửa sạch phần bờ nó
xô đến rồi quay lui về biển.
Giữa những cây cọ cụt đầu, tro tàn và băng
đá, số ít những người sống sót đã tìm được chỗ trú ẩn cho mình. Mặt trời chỉ
hơi ló dạng sau những đám mây và mưa lại trút xuống. Giữa những vòi rồng được
tạo nên do bụi và khói, cuộc sống bị làm cho tan tác, mất trí vẫn bám chặt lấy
sự tồn tại của mình.
Người đi một ủng (đã bị mất một chiếc) bò
ra ngoài cửa hang và sợ sệt ngó nhìn. Hai người khác; một hói, một chột, đi tới
đi lui ở bên ngoài. Có ai đó đã nhóm lên một đống lửa. Người đi một ủng nhìn
thấy con rết ở bên cạnh và giẫm bẹp nó. Sau đó anh vươn cổ và lại nhìn ra
ngoài.
- Giờ thì anh ra được rồi - người hói đầu
nói - không có gì đe dọa anh nữa cả. Ra sưởi ấm đi.
Anh bò ra khỏi hang, đứng dậy và co một
chân nhảy lò cò về phía đống lửa. Đến bên đống lửa, anh ngồi xổm xuống, ngái
ngủ lắc lư người và cứ ngồi trong tư thế đó. Một lúc sau người chột mắt cũng
đến và ngồi xuống cạnh đống lửa.
- Thế là chúng ta tập trung lại đây -
người hói đầu nói.
Trong truyện ngắn viễn tưởng như một câu
chuyện ngụ ngôn hiện đại này, sau thảm họa khủng khiếp đã hủy diệt nhân loại,
những người còn may mắn sống sót đã tập hợp lại bên nhau và bắt đầu làm lại
cuộc sống trên Trái đất bằng chính những kiến thức - cái nền tảng đã xây dựng
nên thế giới và cũng có thể tiêu diệt thế giới...
Hai người kia lầu bầu một câu gì đấy để
bày tỏ sự đồng ý của mình. Rồi họ im lặng. Im lặng hơn một tiếng. Trong lúc đó
các con họ đã từ trong hang chui ra. Thân hình một đứa trông như con thỏ nhỏ,
nó phình ra ở bên dưới, và khi đứa trẻ chuyển động nó xệ sát xuống mặt đất. Đứa
kia trông giống một cái cây, và hai cánh tay như những cành cây gãy khúc. Đứa
thứ ba trông giống một phôi thai lớn.
- Cần phải làm một cái gì đó - người hói
đầu nói.
- Nhưng làm gì? - người chột mắt hỏi.
- Tôi không biết. Phải cứu lấy một cái gì
đó - người hói đầu trả lời.
- Chẳng còn gì để cứu - người đi một ủng
nói.
Họ lại im lặng, và một giờ trôi qua trong
im lặng; âm thanh nghe thấy chỉ là tiếng gào thét, kêu khóc của lũ trẻ con đang
giận dữ cào xé nhau và đẩy nhau đến sát bờ dốc.
- Không thể cứ tiếp tục thế này được,
chúng ta phải chấm dứt việc theo dõi nhau như kẻ thù - cuối cùng người hói đầu
nói – Vì chúng ta chỉ còn lại ba người, ai cũng có con, và nhất định phải làm
một cái gì đấy.
- Thế chúng ta có thể làm gì? – người đi
một ủng hỏi.
- Tôi xin giải thích - người hói đầu nói –
mỗi người trong chúng ta đều có những kiến thức nhất định. Chúng ta có thể ghi
chép lại tất cả những cái đó để có thể để lại cho con cháu chúng ta dù chỉ một
chút gì đấy. Vì chúng sẽ phải bắt đầu lại từ đầu, những gì chúng ta ghi chép
được sẽ ít nhiều giúp ích cho chúng. Thí dụ như - anh ta quay sang hỏi người
chột mắt - anh tên là gì? Anh làm nghề gì? Tôi tên là Antonio Morales. Tôi làm
việc ở cảng, chịu trách nhiệm bốc dỡ hàng.
- Tên tôi là Silba - người chột mắt nói –
tôi là nhân viên văn phòng.
Cả hai quay sang nhìn người đi một ủng.
- Tôi là Anderson. Quản lý ở một cơ
quan... Lửa sẽ tắt mất.
- Đừng lo, sẽ không tắt đâu. Anh hãy quẳng
thêm thanh củi vào. Cảm ơn. Các anh biết đấy, tôi đã quen... có thể nói thế
này... nói chung là một người tổ chức – vì tôi chính là một người tổ chức ở
trên cảng. Còn anh, Silba, anh làm việc trong văn phòng nên có lẽ biết nhiều
hơn chúng tôi.
- Vâng. Tôi có đọc chút ít, nhưng tất cả
chỉ sơ sơ thôi. Tiếc là chúng ta không có giấy... Có thể viết lên những tấm
thủy tinh bẩn này, tôi đã gom chúng lại được nhiều. Nào, chúng ta bắt đầu...
Silba đăm chiêu suy nghĩ và nhìn thẳng vào
ngọn lửa. Lạnh và hình như cả một tuần nay anh cảm thấy lạnh, có lẽ là do anh
đã không ăn uống gì cả. Anh biết gì? Anh biết rằng một sản phẩm khủng khiếp của
sự tiến bộ mà chỉ số ít người đạt được đã đem lại tai họa, và giờ đây họ chỉ
còn lại ba người cùng với những đứa con, bộ dạng chúng khiến phải kinh hoàng,
và ba người bọn họ đang hi vọng có thể cứu vãn được chút gì đó. “Nero (1)!” –
anh chợt nhớ. Trước đây anh đã xem một bộ phim về vị hoàng đế La Mã này.
- Tôi biết câu chuyện về Nero - anh nói
thành tiếng – chúng ta có thể bắt đầu từ ông ta.
- Tốt đấy! – Morales, rõ ràng là đã tỉnh
táo lại, thốt lên – Nero, mà tiếp theo là Christ (2). Một khởi đầu tốt đẹp.
Nero sống năm bao nhiêu nhỉ?
- Tôi không nhớ. Tôi chỉ nhớ là cùng thời
với Julius Caesar. Theo tôi, khoảng năm thứ 300 trước Công nguyên.
- Thế Christ sống vào thời nào?
- Cũng vào thời đó, tôi đoán vậy.
- Tuyệt rồi - Và Morales bắt đầu ghi chép.
Thế anh còn biết gì nữa không? Thí dụ về Julius Caesar.
- Nero đã đốt cháy thành La Mã. Julius
Caesar đã lập nên đế chế.
- Thế ông ta không xây dựng thành La Mã
lại à?
- Theo tôi thì không.
- Thôi được - người hói đầu nói - điều này
không có ý nghĩa. Thế anh biết gì về những người Hi Lạp?
- Người Hi Lạp sống trước đó.
- Chính xác là khi nào?
- Hơn 1.000 năm trước Công nguyên. Họ đã
đánh nhau với người Sparta (3).
- Và ai thắng?
- Theo tôi không ai cả. Từ đó mà có thành
ngữ “chiến thắng của Pirr”.
- Pirr (4) là tướng của quân Sparta?
- Phải, anh cứ ghi thế.
- Xong rồi. Nhưng theo tôi, chúng ta làm
chưa đúng. Cần phải bắt đầu từ khoa học tự nhiên - Morales nói - còn anh, Anderson,
anh chịu trách nhiệm về cả một cơ quan hành chính; có lẽ anh biết điều gì đó về
điện.
- Không, tôi chẳng biết để làm gì cả. Thay
cái bóng đèn bị cháy thì tôi có thể. Tôi còn biết về dòng điện, có dòng điện
dương và dòng điện âm.
- Thế điện là gì? – Morales hỏi – Nó được
làm ra như thế nào?
- Như thế nào à?... Nó được sản xuất trong
nhà máy. Còn chính xác như thế nào thì tôi không thể nói được. Ở trong các nhà
máy có các đường dẫn, dây cáp. Còn có cả các máy phát điện. Mà máy phát điện là
cái gì? Con cái chúng ta hẳn cũng nên biết về nó.
- Thế còn anh, Silba, anh là nhân viên văn
phòng - Morales tiếp tục – Anh hãy cho chúng tôi biết máy phát điện là gì?
- Đó là các vòng dây, chúng quay và sinh
ra điện.
- Chúng còn sinh ra gì nữa?
- Phải chăng điện là còn ít?
- Anh ghi vào đi - Anderson
nói.
- Xong rồi - Morales trả lời.
- Còn anh biết gì? – Anderson hỏi Morales.
- Tôi biết cách bốc xếp hàng trên boong
tàu, hoặc là xếp vào trong phòng lạnh - Morales trả lời – nhưng ở đây không có
tàu có phòng làm lạnh, cả việc khuân vác chúng cũng không.
- Anh không biết gì hơn về những con tàu
à? – Anderson hỏi.
- Tất nhiên là biết. Tôi có thể vẽ nó và
gọi tên từng bộ phận của con tàu.
- Chẳng hạn, tại sao tàu không bị chìm?
- Tại sao nó không chìm à? Tại vì nó rỗng.
Ở chừng mực tôi biết thì ở đây theo một qui luật vật lý.
- Định luật Newton - cựu nhân viên văn
phòng giải thích.
- Chính xác, Newton. Anh biết gì về
Newton?
- Các anh đợi chút:... Định luật Newton
nói về lực vạn vật hấp dẫn. Qui luật này áp dụng cho toàn vũ trụ.
- Chính vì thế tàu không bị chìm?
- Không hẳn. Nó không bị chìm là do một
nguyên nhân hoàn toàn khác. Nước không để cho nó chìm.
- Thế còn gì làm nó không chìm nữa?
- Tôi đã nói với các anh rồi. Định luật
Newton.
- Thế là chúng ta đã tiếp cận với khoa học
thật sự - Morales nói và ghi nhanh lên tấm kính bẩn – Thuyết tương đối là gì?
- Ồ, thuyết tương đối! Điều này liên quan
đến Einstein(5) - Silba giải thích - Ông ấy đã khám phá ra nó, tạo nên một bước
ngoặt trong vật lý học. Ông ấy nói rằng tất cả chỉ là tương đối.
- Được rồi - Morales nói rồi bỏ tấm kính
đã ghi kín sang một bên và cầm lấy tấm khác – Tất cả đều tương đối. Anh có nhớ
một công thức nào đó của nó không?
- Không. Đợi đã... tôi nhớ ra rồi. Nó nói
rằng vận tốc ánh sáng là 300.000km/phút.
- Anh chắc là trong một phút chứ? Nó có
quá nhanh không đấy?
- Không đâu. Tôi nhớ chính xác mà.
- Tuyệt vời. Thế anh biết gì về hình học?
- Định lý của Pythagore - Silba trả lời,
con mắt duy nhất của anh bắn ra niềm vui.
- Nó nói về điều gì vậy?
- Đó là phương pháp đo các cạnh của một
tam giác. Các anh đợi chút... Pythagore cho rằng... Có lẽ chưa nên ghi vội...
bình phương của cạnh huyền bằng bình phương của một cạnh góc vuông.
- Anh có thể giải thích điều này cho tôi
không?
- Vâng, các anh nhìn xem. – Silba lấy một
con dao, việc này khiến hai người kia lo lắng; nhưng anh ta dùng nó để kẻ trên
nền đất cháy bỏng một tam giác vuông. – Các anh thấy chưa? Ở đây có phải là
bình phương của cái này - và anh vẽ một hình vuông trên cạnh huyền - thì bằng
bình phương cạnh này. Anh lại kẻ thêm hình vuông khác có một cạnh là cạnh góc
vuông nhỏ.
- Nhưng chúng không bằng nhau.
- Đấy chỉ là cảm thấy thế khi các anh
nhìn, còn theo toán học thì chúng bằng nhau. Vì vậy Pythagore đã phải chứng minh
điều này.
Họ cứ tiếp tục cho đến tận cuối ngày, cho
đến khi người hói đầu chưa quyết định rằng hôm nay như thế là đủ; sáng hôm sau
họ gọi các con của họ lại và dưới cơn mưa không ngớt, trong thế giới đã bị hủy
hoại bởi những con người hiểu biết rộng, họ lại bắt đầu truyền đạt những mẩu
kiến thức đã được lưu lại trong trí nhớ của riêng họ cho những đứa con dị dạng
của mình; chúng nhìn họ bằng những đôi mắt vô hồn và im lặng lắng nghe họ.
- Hai bình phương bằng bốn. Tương tự, tám
bình phương bằng mười sáu, còn mười hai bình phương bằng hai tư. Để có được
bình phương của một số, hãy nhân số đó với hai...
_________________________________________
(1) Claudius Caesar Nero: hoàng đế La Mã từ năm 54-68 sau Công nguyên
(2) Chúa Jesus
(3) Sparta: một thành phố - quốc gia Hi Lạp cổ, nằm ở phía nam bán đảo
Peloponnec. Sau cuộc chiến xảy ra vào thế kỷ 8-6 trước CN Sparta trở thành một
quốc gia hùng mạnh
(4) Pirr (319-273 trước CN): sa hoàng của Epir, một nước cổ đại thuộc Bắc
Hi Lạp, đã chỉ huy quân của thành Tarenta
ĐÔNG TAY KIỆU DIỆP (tác giả giữ bản quyền)
____________________________________________
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét