Bản sắc riêng của thơ Tây Nam Bộ, có hay
không? Tôi cho là có. Chỉ còn chuyện là tìm. Cùng nhau đi tìm. Cần bàn
bạc, trao đổi. Chớ nên áp đặt. Cũng không nên nghĩ là có thể dễ dàng giải quyết
qua một cuộc hội thảo, cho dầu đó là cuộc hội thảo được chuẩn bị chu đáo, rất
nhiều tâm huyết, rất nhiều kỳ vọng.
Chẳng hạn, có người cho rằng, sự chân tình
và giản dị chính là hồn cốt của thi ca miền Tây. Rất có thể. Chỉ xin đừng tuyệt
đối hóa những đặc tính ấy. Đọc Kim Ba, tôi lại thấy khác. Ấn tượng nhất có được
từ bài Trăng hoàng hôn là những câu thơ chất chứa suy
tưởng:
“Ta vẫn quen nghĩ về trăng một vật thể
cổ xưa mà quên rằng trăng có khoảnh khắc hóa thân này bởi làn ánh sáng biết run
rẩy!
Ta vẫn quen nghĩ về trăng một hành tinh
chết lặng mà quên rằng trăng tự tái sinh mỗi ngày như tín hiệu tình yêu tồn
tại!”
Đây là nỗ lực tìm tòi để đổi mới thơ theo
hướng hiện đại. Có lẽ nhờ vậy mà anh được Giải nhất Cuộc thi thơ của Báo Văn
nghệ Thành phố Hồ Chí Minh năm 1993.
Tuy nhiên, không ở đâu cái chất triết lý
lại đậm đặc như trong thơ của bậc kỳ lão Trang Thế Hy. Tôi đã có dịp đến thăm
ông, chăm chú lắng nghe ông nói. Toàn những điều thú vị được chắt lọc từ đời
sống nhất là từ sách vở. Ông đọc rất nhiều, đủ loại sách Đông Tây kim cổ. Phần
nhiều là văn chương. Và tôi biết ông nghĩ còn nhiều hơn. Phụ bản thơ
Báo Văn nghệ số 3 năm 2003 có trân trọng giới thiệu một chùm thơ của
ông. Định lý và định lý là một bài thơ đặc sắc. Thật
khó quên những khái quát sau của một nhà hoạt động văn nghệ lịch lãm: “Một
cơn đói ngắn hạn có khi là cô đỡ giúp một thiên tài đẻ ra tuyệt tác / Còn sự
đói bụng kéo dài quá lâu của một cộng đồng quá lớn người nghèo khổ chỉ đẻ ra
nhà giam để nhốt người phạm pháp mà thôi”. Thơ
Trang Thế Hy thường thế! Là một nhà viết truyện bậc thầy, ông quen dùng hình thức
thơ - văn xuôi để diễn tả những cảm xúc và suy nghĩ sâu lắng của mình. Các bài
thơ khác như: Người bạn đường có tên là Hy vọng, Dấu răng, Từ một món đồ chơi
của tuổi thơ nghèo... cũng cùng một cách nghĩ, cách
cảm, cách viết tương tự. Có thể chân tình, nhưng không thể bảo chỉ có giản dị.
Để nhận ra nét riêng biệt của một vùng
thơ, điều quan thiết nhất có lẽ là cùng xác định cơ sở xuất phát chung. Có thế
mới dễ trao đổi và mới đi đến hiệu quả. Đó là gì vậy? Phải chăng đó là nét đặc
thù của lịch sử, của thiên nhiên, của văn hóa. Cần chú trọng điểm sau cùng. Và
cũng cần lưu ý đến đặc trưng của nghệ thuật, ở đây là thi ca, mà điểm nổi bật
là cái chung phải được chuyển hóa trong cảm nhận riêng của từng người cầm bút.
Đội ngũ sáng tác thơ ở Đồng bằng Sông Cửu
Long có thể nói là khá hùng hậu. Ta có thể dễ dàng bắt gặp bóng dáng sông nước,
hình ảnh con người Nam bộ qua tâm tình của bất cứ cây bút thơ nào ở đây.
Bài Tản mạn hoàng hôn của Quốc Bình chọn những ý thơ
thật đẹp:
“Chờ ai qua buổi muộn màng
Đò ngang chở giọt nắng tàn rơi theo
Người về bến cũ gieo neo
Trả cho sông lạnh cánh bèo phân ly”
Những “con đò”, “bến cũ”,
“sông lạnh”, “cánh bèo”… có lẽ không mới, thế mà vẫn gieo vào
lòng ta một cảm giác bâng khuâng. Hình như ta đã bắt gặp đâu đó cảnh tượng ấy.
Và thế là lòng ta cứ như có sóng vỗ... Cây bút trẻ Vũ Hồng chuyên viết văn xuôi
và có thể xem là đã sớm thành danh trên địa hạt này khi có dịp đến với thơ cũng
đã tạo nên nhiều ấn tượng. Bài Người Phương Nam nói
với tôi về điều đó:
“Người Phương Nam say thì say trọn
Người Phương Nam buồn thì buồn sâu”
Không rõ có gì trong những vần thơ dung dị
kia lại có thể găm vào trí nhớ của tôi ngay từ lần đầu được nghe ở Đà Lạt. Cảnh
và người ở Đà Lạt có phần khác, chính vì thế cái lạ của hai câu thơ thể hiện
cái lạ của cảnh và người miền Tây có dịp nổi bật lên chăng!
Các tác giả ở đây phần đông đều ý thức
được trách nhiệm xã hội đặt lên vai mình. Đây, hai câu đầu bài Vô
đề của Tô Nhược Châu:
“Vắt cạn máu đời lên nghiên mực
Giận mình không viết được câu thơ”
Người cầm bút có trách nhiệm nào đều hơn
một lần trải nghiệm điều ấy. Sống hết mình mà sao vẫn cứ chật vật trước một câu
thơ? Cố nhiên, đây là những câu thơ tâm huyết trong mong đợi của ta và của
người. Tâm huyết chứ chưa hẳn là hay. Hay được, dẫu chỉ là một câu, là khó lắm.
Có khi phải đánh đổi một đời. Hai câu sau đẩy ý thơ đi xa hơn:
“Quẩn quanh giữa trận đồ hư thực
Trang giấy buồn hiu cứ đợi chờ”
Không đúng vậy sao! Ngoài chuyện riêng -
chung ra, thi ca bao đời nay rút cuộc chỉ xoay quanh chuyện hư - thật. Lúc
nghiêng về phía này, khi ngả về phía kia. Rất cần sự hòa quyện giữa chúng. Đã
mấy ai đắc đạo thi. Lòng buồn hiu như tranh giấy trắng. Vẫn cứ đợi cứ chờ. Vẫn
không thôi vươn tới. Người ta gọi văn chương là cái nghiệp, phải quá rồi. Thật
đáng yêu, đúng quý cái sự bất lực trong thể hiện ý đồ sáng tạo thi ca kiểu ấy.
May thay, hướng đi của các cây bút thơ Đồng bằng sông Cửu Long nhìn chung được xác
định rõ ràng: Thơ, nói gì thì nói, cần phải hữu ích.
Người đọc lắng nghe gì trong thơ? Tâm
tình. Tình lại được khởi phát từ cảnh, từ sự, như nhà bác học Lê Quý Đôn từng
dạy. Nhập vào cảnh và sự để cái tình phát lộ. Muốn được như vậy, người cầm bút
không chỉ là nhân chứng mà phải nhập cuộc, thật sự nhập cuộc, như một thành
viên, không một phút tách rời. Nếu không, những vần thơ nhàn nhạt, quá dư thừa,
có cơ nảy nở. Thơ chấp chới bởi người viết chấp chới; chân không tới
đất, cật không tới trời. Kiểu như: “Ơi cô gái miền Tây / Ngực căng đầy
sức sống/ Sau một ngày lao động / Dường như em đẹp thêm / Cô gái miền Đông Nam
Bộ không thế chăng? / Miền Bắc, miền Trung không thế chăng?”. Hay
như: “Có một thời ta nói với nhau / Về hạnh phúc về những gì rất thật
/ Trái ổi chín sau vườn thơm nức / Chim sẻ bay qua buổi sáng trong lành”. Đọc
lên nghe cũng dìu dịu, êm êm. Nhưng chẳng vương chút vị đậm đà nào như vị sầu
riêng miệt vườn, chỉ một lần nếm là nhớ mãi. Chớ nên viết những câu thơ hợp với
mọi nơi, mọi thời, khi chưa thật sự có tài. Tôi e những câu thơ trên sẽ như con
chim sẻ không có chỗ đậu, do thế mà bay đi mất hút.
Thơ hay cần được ghi dấu địa chỉ tâm hồn.
Câu chữ, hình ảnh là chuyện đến sau. Có dịp dừng chân ở thị xã Trà Vinh, bạn sẽ
thấy bạt ngàn cây xanh. Phần nhiều là cổ thụ. Nhà thơ Lê Tân, một trong những
chủ nhân của thị xã đáng yêu ấy, có lần đưa chúng tôi đi dạo, không sao kìm nén
được niềm tự hào. Nếu có gọi là tự mãn thì cũng chẳng quá đâu. Đáng tự mãn, tự
kiêu lắm chứ! Xin cảm ơn Thái Hồng đã sáng tạo nên Tình ca xanh để
ca ngợi Trà Vinh xanh:
“Giọt đàn thánh thót chiều êm
Chừng như trong tiếng gió mềm lá rơi”
Tinh tế, quả là tinh tế. Lại còn phát hiện
ra vẻ chung tình, rất chung tình nữa kia:
“Ví như tình đã trăm năm
Lá vàng cứ rụng vẫn thầm đợi nhau”
Liên tưởng khoáng đạt mà nhất quán. Đọng,
rất dễ đọng trong tâm trí.
Sáng hôm ấy, Lê Tân còn cho tôi đi qua Cầu
Ngang - một địa danh nổi tiếng ở Trà Vinh. Chợt hiện trong tôi những câu thơ
của Tăng Hữu Thơ:
“Lơ lửng chiều, cò trắng chớp trong
mây
Mùi rơm rạ, mùi trâu bò vương vất”
Và:
“Chân chưa chạm mặt đường, chân đã mê
bước tới
Người chưa rõ mặt người, hồn đã vang tiếng
gọi
Thương mến ơi! Tình đã thắm bao ngày”
Thi ca giúp tăng thêm ấn tượng của một
chuyến đi. Chúng tôi dừng chân ở Ba Động. Lê Tân chỉ cho tôi hoa muống biển và
đọc cho tôi nghe những vần thơ quen thuộc viết về loài hoa ấy của chính mình:
“Đã đi cuối đất cùng trời
Hoa lan, hoa cúc... giữa đời ngát
hương
Mà sao cứ nhớ, cứ thương
Màu hoa muống biển suốt đuờng tôi qua”
Và cho tới lúc này, hồi ức tôi vẫn còn âm
vang Chiều Ba Động của Châu Thị Cẩm Liên:
“Chân trần êm êm cát mịn
Tôi về Ba Động chiều nghiêng”
Tôi thích cái cảm giác đặt bàn chân trần
trên cát mịn, như muốn hòa quyện hồn vía vào đất mẹ, lấy sức mạnh từ nơi đất
mẹ. Cát êm hay lòng êm? Chiều nghiêng hay lòng nghiêng? Để rồi tôi có dịp gặp
lại hoa muống biển trong thơ qua một cảm nhận khác, giữa động cát, xao xuyến
đến ngỡ ngàng:
“Động cao trải dài năm tháng
Triền xanh muống biển dịu dàng
Nhớ ai mà hoa tím vậy
Vỗ bờ biển hát chung chiêng”
Ám ảnh ta nơi đồng bằng không chỉ có hoa
muống biển. Còn có màu điên điển nở vàng như nỗi nhớ, vàng đến nao lòng. Rất
nhiều lần, dọc ngang miền Tây trên xe máy cùng với một người bạn, tôi đã dừng
lại, lặng ngắm từng cánh hoa điên điển với mong muốn lưu giữ thật lâu dư vị của
đồng bằng. Tiếc là trời không cho tôi khiếu làm thơ để có thể viết về loài hoa
đặc trưng kia như Mai Nhã Tú đã viết: “Thương loài hoa chân chất /
Cánh bé nhỏ đơn sơ / Rụng vàng bên bờ đất / Trong gió đồng phất phơ”. Vâng,
cánh hoa điên điển quả là mảnh mai, không một chút kiêu sa, chính vì vậy mà có
thể hòa vào sông nước mênh mông, vào màu xanh ngút ngàn của Đồng bằng Nam Bộ.
Nghĩ về loài hoa ấy không hiểu sao tôi lại liên tưởng tới những con người của
vùng đất ấy, rất bình dị, khoáng đạt và thủy chung. Trước hết là những người
con gái:
“Nơi những cô gái gội tóc bằng tro bếp
Xõa dài cho gió hong khô
Như ngô non thơm mát hồn nhiên
Râu lún phún đón phấn vàng hào phóng
Vòng ngực căng hơi thở nội đồng”
(Trầm Hương - Vết nhẫn
trên ngón tay thiếu nữ)
Đất ấy đã sinh ra người ấy với những phẩm
chất thật thanh cao. Và khi đã sống hòa vào thiên nhiên và cảnh vật thì con
người hình như có sức quyến rũ riêng, ít đâu có được:
“Có phải em thường ngủ chung với ngâu
nên em thơm... buổi chiều quá đỗi!”
Và:
“Em thường lội hái sen
Sao em thoang thoảng giữa sen và nước”
Hoa đẹp hơn hay người đẹp hơn? Khó mà đoán
định nổi. Bài thơ Gái và hoa của La Quốc Tiến muốn
thể hiện điều đó chăng? Xin cảm ơn những cây bút Đồng bằng đã giúp người và hoa
ngoài đời thăng hoa trong nghệ thuật với vẻ đẹp vừa hư vừa thực ấy! Dấu ấn của
đất trời và con người phương Nam trong thơ Đồng bằng quả là sâu đậm.
PHẠM QUANG TRUNG (tác giả giữ bản quyền)
___________________________________________
ĐÓN ĐỌC BÔNG TRÀM CHUYÊN ĐỀ ĐẶC BIỆT
THƠ ĐỒNG BẰNG & NHỮNG CUNG BẬC
>> Vui lòng nhấp chuột vào hình ảnh phía dưới để vào mục lục số đặc biệt <<
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét