1. Chị tha thẩn nhìn sông Hậu vẫn còn nước
đục chảy về mùa lũ. Bầu trời vẫn nhiều
mây bay. Vầng trán rộng mịn màng của chị ngày nào đã khác: hơi nhăn nhúm dù chị
cố níu lại sức trẻ trung của kiếp người mau qua như bóng câu thoắt ngang cửa sổ.
Ngày thôi nôi chị, nghe mẹ kể, chị “bắt”
cục đất, cha không mấy vui lòng vì ông muốn con gái chọn cây viết để sau làm cô
giáo cho sạch sẽ hơn. “Nó bắt đất, lớn lên cạp đất ăn chớ làm gì!”, cha chị buồn
nói như thế. Mẹ chị lại khác, giận câu nói chồng mấy ngày không ăn cơm, chê con
gái cạp đất ăn bà ức lắm.
Sau nầy đi dự các đám thôi nôi, chị lấy
làm lạ, có bé “bắt” cục đất thì được cha mẹ mừng ôm nhảy tưng! Hỏi ra chị mới
hiểu, người ta vừa khôi hài vừa thể hiện tính thực dụng hơn trong ước mơ: “Bắt
đất sau lớn lên nó làm xáng cạp, làm địa chính, làm cò nhà... Có thổ cư thì ở
đô thị loại một loại hai... giàu lắm hi hi!”.
2. Khác dự đoán ngày thôi nôi, lớn lên chị
đi làm cô giáo như ước nguyện của cha.
Trận lũ lụt năm 1978 tràn về tàn phá đồng
bằng sông Cửu Long, lúa chết sạch, rau màu bị lũ càn quét, cả làng đói, gia
đình chỉ dựa vào mười ba ký lô gạo chế độ của chị cơm cháo qua ngày. Mỗi bữa
ăn, cha chị nhìn thấy nồi cơm ít ông giả vờ đi ra vườn tưới cây nhường phần cho
các con đang sức lớn! Bây giờ khá giả rồi, hồi tưởng lại những năm tháng ấy chị
nghe não lòng. Năm đó cha chị theo đoàn ghe chở nước mắm cá linh xuống Cà Mau
len lỏi vào Năm Căn, Đầm Dơi... bán kiếm tiền về mua gạo cứu đói gia đình.
Ngày xưa mỗi lần đi chợ, mẹ chị thường
mua “nước mắm biển” nấu sẵn từ tiệm tạp hóa của người Hoa, hồi đó người ta dùng
cá biển nấu nước mắm, xong cho vào cái tỉnh nhỏ hàn miệng lại bằng xi-măng
tránh bị nhiễm trùng và bốc hơi, mẹ chị dựa vào hương vị nghiên cứu nấu nước mắm
thủ công bằng nguyên liệu cá linh, bà nấu nhiều lần ngày càng thơm ngon. Mỗi mùa nước nổ, cha chị chèo ghe ra Vàm Thới
An giáp mé sông Hậu mua cá linh non về ủ mắm. Chị thường theo cha ngồi trước
mũi ghe để cái đầu trần tóc phất phơ nắng gió làm khét lẹt. Cha chị tâm sự với
con nhiều chuyện trên trời dưới đất, thỉnh thoảng ông cho ghe ghé vào gốc bần
trú nắng nghỉ tay, bần đan xen với lác hình thành một vùng sinh thái chạy dọc
theo sông trông rất nên thơ, hình ảnh những trái bần chín rụng để lại trong mắt
chị mãi tới giờ. Chị ăn bần chua mà nghe “ngọt”. Cái tâm linh nặng trĩu ân tình
xứ sở cho phép người ta nhận định sai về vị giác: quê hương cái gì cũng ngọt kể
cả chanh, ớt, khổ qua...!
Mỗi ngày đi học về, chị rót nước mắm cá
linh nặn chanh chan cơm ăn ngon lành. Làn khói mỏng tỏa ra từ mái bếp mỗi sáng,
mỗi trưa, mỗi chiều quyện vào không trung trở thành hồn quê luôn ập vào mắt chị
suốt những tháng năm dài.
Giờ cha mẹ chị lần lượt qua đời, mỗi lần
ra vườn nhìn lại hai ngôi mộ song song, chị nhớ đến hình ảnh ông bà đầu tắt mặt
tối lao động nuôi con, mà ngùi ngùi, chị nghe âm vang hồn cha bên sóng nước vỗ
về nặng nề đôi tay chèo chở cá linh non. Nhiều kỷ niệm tuổi thơ cũng về trong
ký ức, lắm lúc chị chiêm bao thấy mình còn quanh quẩn bên chân mẹ chân cha, bên
bầy vịt con được mẹ gà ấp ủ, bên vồng khoai lang chưa tới vụ đã moi lên nấu sớm,
bên đám học trò ngỗ nghịch mà hiếu nghĩa nặng tình...
Đi đâu chị cũng nghe hương lòng thời
thanh xuân sống lại. Đến Vàm Thới An, chị nghe mùi cá linh non lai vãng nơi sống
mũi mình, mùi cá đưa tâm hồn chị bồng bềnh với nỗi nhớ thương da diết vằng vặc,
những cây bần xưa theo thời gian dâu bể đã biến bớt thay vào thế hệ bần mọc sau
còn sức lớn. Chị ghé vào một quán nhỏ ven sông Hậu, gọi món cá linh non nấu
canh chua bần và kho lạt với lá mía, chị nhắm nháp hương vị ngày nào, nghe nằng
nặng nỗi niềm sông nước miên man.
Ăn xong, chị ra bờ sông ngồi gục đầu
khóc, hai tay ôm gốc bần nghe gió phe phẩy thổi. Hình ảnh người cha thân thương hiện về trong
ký ức khi chị nhìn ngoài sông dường như có bóng dáng vài con cá linh non ẩn hiện
theo bọt thủy triều.
Một bé gái từ đâu bước tới hỏi:
Chị lắc đầu nghèn nghẹn, con bé hiểu ngay
chị đang có nỗi đau về một chuyện lòng xâu xé, nó choàng tay ôm hông chị:
- Cô có cần
con trợ giúp?
Chị nhìn kỹ
con bé, tay lau mắt:
- Không, cô chỉ cảm động thôi.
Một hồi, tạm lắng cơn đau, chị thâm trầm
nói với con bé:
- Quay về vùng sông nước nầy, nhìn những
gốc bần làm cô nhớ chuyện xưa, lúc nhỏ theo cha ra đây mua cá linh non về ủ mắm...
Chị linh cảm con bé có gì thân thiện dễ
hòa nhịp, chị hỏi:
- Quê con ở đâu, cuộc đời sao kể cô nghe?
- Gốc con phương xa trôi dạt về đây cô à,
theo cha mẹ qua nhiều vùng sông nước sống bằng nghề chài lưới, cha con giỏi nghề
câu lắm, năm nào vào mùa nước nổi ông cũng câu được nhiều cá lăng, cá cóc... to
cho mẹ lên ngồi các chợ bán. Rồi một hôm cha bị bệnh chết trên chiếc ghe nhỏ
làm phương tiện mưu sinh ấy, có người
thương tình cho vài thước đất cặp mé sông cái chôn cất cha, năm đó con mới vài
tuổi. Yêu cha, mẹ đậu ghe cạnh mồ ông suốt
mấy năm trời, hằng ngày dậy sớm đón ghe các ông bạn thương hồ đồng nghiệp mua
cá lên chợ tiếp tục ngồi bán. Đêm về con và mẹ sống chung với đàn đom đóm dầy đặc
“mở đèn” lớp chớp trên các ngọn bần, thỉnh thoảng vài chiếc ghe thô kệch xuôi
ngược đậu lại gần gũi cho vui một “xóm giềng” lưu lạc. Mẹ cố nuôi con nhưng bà còn
trẻ quá không thể ôm hoài cái định số... đành gởi con lại cho một bà bạn bán cá
chung ở đây, bà nhận con làm dưỡng tử, nuôi con học hết lớp mười hai, cho đất
con cất tiệm bán tạp hóa...
Chị ôm con bé khóc, không muốn tìm hiểu
thêm đời tư nó, con bé cảm động khóc theo. Một hồi con bé nói:
- Đời nuôi mình chồng chềnh trên đầu sóng cuối gió, mình phải
biết tạ ơn sông nước cô à!
- Cô giống con, con cái của sình lầy, khi
trăm năm phải trả về cho nó cái mà ngày thôi nôi cô đã “bắt”: đất. Đất quê hương khi xa ai cũng trông về mòn mỏi...
Vài chiếc sà lan, vài chiếc ghe to nhỏ vẫn
chở nhiều thứ của cải cần thiết về khắp nơi. Sông vẫn chở cá từ Biển Hồ nhưng mất
đi mật độ xưa. Sự hủy diệt nguồn thủy sản do con người đánh bắt, gây ô nhiễm
quá ư tàn tệ, mấy mươi năm thôi đã làm cạn kiệt mạch sống của sông. Ngày xưa
bình quân mỗi mét khối nước các nhánh sông ở đây chứa cả chén cá tép nhỏ chưa kể
các loài lớn, nay cả một khúc sông trôi nếu gom lại chưa được tô cá tươi! Dòng
sông trở nên quạnh quẽ thủy sinh.
Chị đứng dậy vuốt tóc con bé nói lời giã
từ:
- Thôi cô về, chúc con nhiều hạnh phúc!
3. Chị nghe lưu luyến cái Vàm Thới An đến
tận cùng. Sông Hậu vẫn miên man một dòng phù sa đỏ đục khi mùa nước lớn đổ về,
mặt nước năm xưa có những “con nước” hình thù giống loài đỉa dại, mang đủ màu sắc,
lội loăn quăng nhởn nhơ dầy kịt theo mé, chị cho tay đụng vào thân chúng, từng
con tan ra như sữa đục mà cha chị nhìn tiên đoán: “Năm nay nước lớn!”.
Chiếc ghe đưa chị ra khỏi chợ Vàm Thới An.
Những người đánh bắt cá cho biết dưới lòng sông cá linh non thưa thớt. Chị nghe
thương sao, sông muôn thuở vẫn chở cá linh về.
Trên
dòng nước trôi cuộn mùa lũ, chị nhớ trong đầu một câu ai đã nói: “Làm nguời có
những điều không cho phép ta chọn trước khi sinh ra, như chọn cha chọn mẹ, chọn
quê hương... nhưng những cái không biết chọn trước ấy lại là điều quí giá nhất”...
THÀNH NAM
____________________
Truyện ngắn rất đặc sắc, mang chất thái nam bộ, chúc mừng tác giả đã được Bông Tràm giới thiệu trên trang.
Trả lờiXóaCám ơn Phương Tâm đã đọc và nhận xét bài. Tôi viết tự nhiên nhưng khi được VN Bông Tràm đưa lên trang, đọc lại nghe lòng mình cũng rưng rưng...
Trả lờiXóa